Hôm nay,  

Thổ-Cẩm Việt-Nam

30/10/201200:00:00(Xem: 12879)
Diamond Bích-Ngọc
(sưu-tầm & biên soạn)

Theo số liệu ước tính của “The World Factbook” do CIA (Central Intelligence Agency) công bố: vào tháng 7 năm 2012, dân số Việt Nam là 91.519.289 người, đứng hàng thứ 13 trên thế giới.

Trẻ sơ-sinh đến 14 tuổi chiếm tỷ-lệ 24.9% (11.924.283 Nam và 10.824.773 Nữ)

Từ 15 đến 64 tuổi: 69.6% (31.824.777 Nam và 31.887.228 Nữ)

Trên 65 tuổi: 5.5% (1.940.755 Nam và 3.117.473 Nữ)

Việt Nam gồm 54 sắc tộc. Đông nhất là người Kinh, chiếm 85.7%, Tày (1.9%), Thái (1.8%), Mường (1.5%), Khmer (1.5%), Hmông (1.2%), Nùng (1.1%), còn lại 5.3% là người Dao, Giarai, Êđê , Chăm, Sán-Dìu, Raglay... Đa số các dân-tộc này sống ở miền núi trong những vùng sâu, vùng xa phía Bắc, Tây Nguyên, miền Trung và đồng-bằng sông Cửu-Long. Cuối cùng là các dân-tộc Brâu, Ơ-Đu và Rơ-Măm chỉ khoảng trên 300 người.

Link: https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/vm.html

Người Hoa cũng được xem là 1 trong 54 sắc dân thiểu-số tại Việt-Nam. Theo “Từ-Điển Bách-Khoa-Toàn-Thư” họ là người có tổ-tiên đến từ Trung-Quốc. Phần lớn là người Hán, tuy nhiên cũng có những người không thuộc Hán tộc. Phần đông người Hoa ở Việt-Nam cũng như trên thế-giới đều đến từ hai tỉnh cực Nam của Trung Quốc là Quảng-Đông và Phúc-Kiến. Riêng một bộ phận nhỏ đến từ vùng duyên-hải Triều-San thì được gọi là người Triều-Châu. Hiện nay người Hoa ở Việt-Nam gồm hai thành-phần: nhóm thứ nhất đã vào nước ta sinh sống chủ yếu tại miền Nam từ khoảng 300 năm nay (thời Trần-Thượng-Xuyên, Dương-Ngạn-Địch, Mạc-Cửu), số còn lại mới vào Việt-Nam từ đầu thế-kỷ 20 khi nước ta còn là thuộc-địa của Pháp, nhóm này sống nhiều tại Chợ-Lớn. Giống như người Hoa tại các nước khác, ở Việt-Nam họ thường tập-trung trong lĩnh-vực thương-mại và được xem là rất thành-đạt.
nguoi_thuong_3
Các ca-nhạc-sĩ: Thanh-Hằng, Dr. David Bui, M.D, Thùy-Liêm, Lan-Anh, Châu-Hiệp, Quốc-Hùng, An-Khoa, Diamond Bích-Ngọc, Thái-Nguyên và Trung-Chánh trong trang-phục “Thổ-Cẩm” trình-diễn tại Garden Park Care Center (sinh-hoạt thiện-nguyện tháng 10 -2012).
Trong giới-hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ xin nói đến những nét đặc-sắc của người thiểu-số vùng cao-nguyên Việt-Nam, tức người Thượng.

“UNHCR” (United Nations High Commissioner for Refugees) tức Cao-Uỷ-Tỵ-Nạn-Liên-Hiệp-Quốc thường nói tắt là "Cao-Ủy-Tỵ-Nạn". Tên gọi rất quen thuộc đối với tất-cả những người Việt-Nam phải rời bỏ đất nước sau biến-cố 30, tháng 4, 1975 - đây là một cơ-quan được thành-lập ngày 14 tháng 12 năm 1950, có trụ sở tại Genève (Thụy Sĩ). Tiền-thân là Tổ-Chức-Quốc-Tế về Người-Tỵ-Nạn (International Refugee Organization) và trước nữa là Cơ-Quan Liên-Hiệp-Quốc về Cứu-Tế và Phục-Hồi (United Nations Relief and Rehabilitation Administration). Mục-đích của Cao-Ủy là chỉ-huy và phối-hợp các hoạt-động quốc-tế nhằm bảo-vệ và giải-quyết nhiều vấn-đề cho người tỵ-nạn trên toàn thế-giới. “UNCHR” đã được tặng Giải Nobel Hòa-Bình hai lần: 1954 và 1981.

“UNHCR” đã ghi-nhận rằng: đồng bào vùng cao (Highland) miền Bắc Việt-Nam tức người Thượng (là một thuật-ngữ có từ thời Pháp thuộc), họ thường cư-trú ngoài vùng sông Hồng và có một nền văn-hóa rất gần-gũi với người Việt-Nam.

Người Thượng có thể được chia thành (ít nhất) trên 30 dân-tộc khác nhau; nói không cùng ngôn-ngữ nhưng chủ yếu là loại “Austronesian Languages” (Ngữ Hệ Nam Đảo) như người Gia Rai, Ê-đê, Rag Lai và Chăm. Nói tiếng “Mon-Khmer” là người: Ba Na, Bru-Vân Kiều, Giẻ Triêng, M'Nông, Xê Đăng và X Tieng. Hầu hết họ theo chế-độ Mẫu Hệ “Matrilineality” (là một hình-thái tổ-chức xã-hội trong đó người phụ-nữ, đặc biệt là người Mẹ, giữ vai trò lãnh-đạo, quyền-lực và tài-sản trong gia-đình được truyền từ Mẹ cho con gái). Người Êđê và Bahnar (Jarai, Rhade, Bahnar, Koho, M'nông, Stiêng) thường là tín-hữu Công-Giáo hay Tin-Lành.
nguoi_thuong_1
Các ca-nhạc-sĩ gia-đình “Chân-Quê” mang màu sắc “Thổ-Cẩm” tươi vui đến “Pacific Heaven Health Care Center”. Một Nursing-Home với 99% là người Mỹ trắng.
Người Thượng có nguồn gốc từ các nhóm khác nhau, người ta cho rằng họ đã đến định-cư ở những vùng phía nam Đông-Dương cách đây hơn 2.000 năm - trước khi có sự xuất-hiện của dân-tộc Kinh. Trong suốt thời kỳ tiền thuộc-địa, đồng bào dân-tộc thiểu-số này vẫn duy-trì sự tự-trị với nhà nước Việt-Nam. Từ khi Pháp chiếm Đông-Dương các khu-vực vùng cao là mục-tiêu của giáo-dục truyền giáo và các hoạt-động thương-mại. Người Pháp dùng chính sách “chia để trị” (devide and conquer) giữa người “Thượng” và “Kinh” (tương-tự như hình-thức chia dân-tộc ta làm ba phần: Bắc, Trung & Nam). Từ đó gây ra những mâu-thuẫn nên đã có những cuộc nổi dậy như của người Jarai kéo dài cho đến cuối những năm 1930.

Để dành được sự ủng-hộ từ các nhóm dân-tộc thiểu số ở các vùng cao-nguyên phía Bắc và Trung phần, chính-quyền thực-dân Pháp thành lập khu tự-trị dân-tộc Mường và Thái ở vùng núi Tây- Bắc và Tây-Nguyên Trung bộ như 'Pays Montagnard du Sud' – đặt dưới quyền giám sát trực-tiếp của vua Bảo-Đại lúc bấy giờ.

(Link: http://www.unhcr.org/refworld/topic,463af2212,469f2f9a2,49749c7e16,0.html)

Một số tài-liệu khác cũng ghi-nhận rằng: vào năm 1956, Tổng-Thống Ngô-Đình-Diệm của chính-quyền Đệ-Nhất-Cộng-Hòa Việt-Nam cho thành lập “Văn-Phòng-Cố-Vấn-Thượng-Vụ” để góp ý về những vấn-đề liên-quan đến cao-nguyên miền Thượng, rồi được nâng cấp lên thành “Nha-Công-Tác-Xã-Hội-Miền-Thượng” (nghị định số 302/NV ngày 3-7-1957) trực thuộc Phủ-Tổng-Thống, trụ sở đặt tại Huế.

Mặc dù chính-sách đề ra cố-gắng giúp người Thượng hội-nhập và đề cao khái-niệm quốc-gia nhưng cũng vướng vào hậu-quả gây thiệt-hại kinh-tế và tổn thương tự-ái của các sắc-tộc vùng cao-nguyên Trung phần. Phong trào BAJARAKA bộc phát (đây là chữ viết tắt tên bốn sắc tộc lớn trên Tây Nguyên : BAhnar, dJArai, RhAdé và KAho) kêu gọi vận động dân chúng Thượng chống lại chính quyền miền Nam.

Những người lãnh-đạo phong trào gồm có các ông Y Bham Ênuôl (người Rhadé, sáng lập viên), Siu Síp (nhân sĩ Djarai), Y Dhơn Adrong (hiệu trưởng trường tiểu học Lạc Thiện), Y Nuin Hmok (giáo viên trung học buôn Kram kiêm chính trị viên), Y Nam Êban (sĩ quan), Y Bhan Kpor, Y Chôn Mlô Duôn Du, Nay Luett, Paul Nưr (trí thức Bahnar) và nhiều nhân sĩ gốc Chăm, Mạ, Stiêng, Kor...) như một phản-ứng của người dân miền Thượng.

Cuộc chống đối đầu tiên xảy ra vào giữa tháng 9-1957, trong một buổi học chữ Việt dành cho người Thượng : ông Y Bham Ênuôl công-khai nói lên những bất đồng của người Thượng và đòi quyền "biệt lập" về hành-chánh và chính-trị.

Một năm sau, trong hai tháng 8 và 9-1958, phong trào Bajaraka tổ-chức nhiều cuộc xuống đường tại Kontum, Pleiku, Buôn-Ma-Thuột nhưng đều bị trấn áp, tất cả những lãnh tụ của phong trào đều bị bắt, những thành-phần có uy-tín như sĩ-quan và công-chức Thượng đang công-tác trên cao-nguyên đều bị thuyên-chuyển về đồng bằng. Cộng-đồng người Thượng như rắn mất đầu đã bị cán bộ Cộng-Sản nằm vùng tuyên-truyền và lôi kéo theo họ chống lại chính-quyền miền Nam; không những thế, một số thanh-niên Thượng ưu-tú còn được tuyển mộ ra Bắc học-tập rồi đưa vào Nam hoạt-động cho phe Cộng-Sản.

Trước đe dọa mới này, tháng 10-1958, chính-quyền Ngô Đình Diệm kêu gọi Kinh-Thượng hợp tác chống Cộng và hứa sẽ cải-tổ sâu rộng hơn về kinh-tế, xã-hội miền Thượng.Văn-Phòng Xã- Hội được thành-lập tại Tây-Nguyên, nhiều học-sinh Thượng được đưa về Huế và các thành-phố Qui-Nhơn, Nha-Trang, Đà-Lạt học trong những trường trung-học kỹ-thuật. Một số cán-bộ Thượng được đưa về Sài-Gòn tu-nghiệp tại “Học-Viện-Quốc-Gia-Hành-Chánh”.


Nhưng kết quả đã không như mong muốn, Văn-Phòng Xã-Hội không hoạt động gì cả, các học- sinh Thượng ra trường (khoảng 150 người mỗi năm) không tìm được việc làm vì thiếu trình độ; bằng cấp của học sinh Thượng thường do nâng đỡ.Đời sống của người Thượng không sáng sủa gì hơn… (trích từ tài-liệu của chuyên-gia dân-tộc tại Pháp: Nguyễn-Văn-Huy).

Khi nền Đệ Nhất Cộng-Hòa sụp đổ, năm 1964 “Nha-Công-Tác-Xã-Hội-Miền-Thượng” đổi thành “Nha-Ðặc-Trách-Thượng-Vụ” trực thuộc Bộ-Quốc-Phòng và sau đó được nâng cấp lên thành “Phủ-Ðặc-Ủy-Thượng-Vụ”.

Sang thời Đệ Nhị Cộng-Hòa: năm 1969, “Bộ-Phát-Triển-Sắc-Tộc” được thành lập ngay trong chính-phủ Việt-Nam-Cộng-Hòa do một người Thượng lãnh đạo, có chức-năng tương-đương các Bộ khác. Tổng-Trưởng Bộ-Sắc-Tộc lúc bấy giờ lần lượt là các ông Paul Nưr, Ya Ba, cuối cùng là ông Nay Luett (Nay Louette), một lãnh-tụ người GiaRai.

Cho đến ngày nay, dân-tộc Kinh chiếm khoảng hai phần ba dân-số người miền Thượng.

Chúng tôi vừa sơ-lược vắn-tắt về nguồn gốc và đời sống của người thiể-số Việt-Nam.

Hơn mười năm qua, trên những chặng đường chia xẻ tình-thương đến các đồng-bào khó nghèo vùng Thượng-Du; chúng tôi đã có cơ may gặp trực-tiếp nhiều sắc tộc như: Xinh-Mun, Mường, La-Ha, Chăm, Dao, Hre, Ba-Na, Lô-Lô, Tày, Thái, Cơ-Tu, Nùng… Họ sống hiền hòa như cây, như cỏ. Bình-dị, hoang-sơ trong những căn nhà sàn trên triền đồi hoặc ngay ở vách núi cheo-leo. Ấn-tượng sâu đậm nhất trong tôi là những bộ trang-phục rất đẹp mắt và đầy sức quyến rũ của các Sơn-Nữ núi rừng cao-nguyên huyền-bí– Đó chính là: “Thổ-Cẩm Việt-Nam”.

Mỗi một vùng đất, mỗi một tộc người có những nét rất riêng mà phải thật tinh-ý chúng ta mới nhận biết được qua chất liệu mềm mại, màu sắc và hoa-văn đầy ý-nghĩa trên mặt vải. Đặc biệt càng ở vùng núi cao, nơi quanh năm mây mù bao phủ, hoa-văn của họ càng thiên về màu nóng với nhiều đỏ, vàng. Ở cổ và nẹp áo phụ-nữ Mông-Hoa có xử-dụng chỉ màu đỏ, xanh lá cây thêu hình con ốc (lầu kưx), loại ốc này sống trên cạn, còn gọi là ốc rồng (Kưx rong), hoặc bố-cục theo lối băng ngang họa tiết hình con chim (lầu-mờ-nông) cách điệu, nổi rõ hai bên nẹp trên nền vải trắng.

Hoa-văn của mỗi dân-tộc đều mang những nét đặc-trưng riêng về bố-cục, màu sắc, lối trang-trí, tạo nên sự phong-phú đa-dạng, nhưng chúng lại thể-hiện một sự thống-nhất cao về tính hình-học và cách điệu hóa. Loại hoa-văn này phản-ánh một thế-giới-quan về vũ-trụ và thiên-nhiên như mặt trời, hoa lá, sóng nước, núi non, cây thông hoặc các loài động vật... Đôi khi mang hình chim thú, hoa lá được dệt trong từng ô vuông nhỏ, cân-đối, rất tỉ-mỉ; tạo nên cảm-giác hoang-sơ sắc-xảo, biểu-tượng của từng dân-tộc Thượng; hoa-văn nổi lên trên bề mặt vải như thêu, đem lại sự tương-phản nhưng rất hòa-hợp qua từng sắc độ của màu.

Nghề dệt Thổ-Cẩm có từ rất lâu đời ở nước ta, trước đây sản-phẩm này được tạo ra chủ-yếu nhằm phục-vụ nhu-cầu trong gia-đình các bộ-tộc, làm của hồi-môn khi con gái về nhà chồng và một phần để trao đổi hàng-hoá lấy lương-thực.Ngày nay, Thổ-Cẩm là những món quà lưu-niệm rất được ưa chuộng đối với khách du-lịch khi đi đến các vùng cao-nguyên Việt-Nam.

Nguyên-liệu chính được xử-dụng là bông vải; thu hoạch theo mùa được đánh tơi xốp rồi kéo thành sợi.Một số dân-tộc còn khai-thác chất liệu từ vỏ cây kéo thành sợi. Kỹ-thuật lấy sợi và mắc thành cuộn theo các quy trình sau:

Cho bông qua giá tách hạt - Cung bật bông - Xa quấn tơ - Xa bắt chỉ - Xa đánh ống - Giá mắc sợi - Khung xỏ go.

Quá trình nhuộm vải như sau:

Màu nhuộm dành cho Thổ-Cẩm có thể được tạo ra từ nhiều chất liệu thiên-nhiên và phương-pháp khác nhau:

- Màu đen: ngâm lá chùm bầu với bùn non từ ba đến bảy ngày đêm hoặc ngâm lá chàm.

- Màu nâu hoặc màu đỏ sẫm lấy từ các loại vỏ cây.

- Màu xanh: nung vỏ ốc suối thật khô, ngâm thành vôi rồi trộn với nước lá krum; hoặc ngâm lá chàm.

- Màu đỏ: giã vỏ cây krung già ra, nấu lên.

- Màu nâu đỏ: ngâm giấm vỏ cây sủi, đun sôi khoảng ba giờ và làm mát qua đêm, pha thêm phèn rồi ngâm sợi vải ở nhiệt độ 80 độ C.

- Màu vàng: nhuộm từ củ nghệ.

Sau khi nhuộm, sợi được phơi khô. Người thợ nhuộm xử-dụng một chiếc bàn chải (kruamrai), chải dọc theo cuộn sợi để gỡ sạch các vụn màu và vỏ cây.

Hàng Thổ-Cẩm cũng đã được nhà thiết-kế nổi tiếng Minh-Hạnh (Saigon) đem sang Pháp để tham-dự Festival ngành dệt may từ ngày 12 đến 16 tháng 9, 2012 vừa qua tại Clermont Ferrand. Thổ-Cẩm Việt-Nam đã được xếp vào mặt hàng mang tầm-vóc quốc-tế vì để lại rất nhiều ấn-tượng đẹp và được mọi người vô cùng yêu thích & hâm-mộ.

Trong những chương-trình sinh-hoạt âm-nhạc thiện-nguyện của gia-đình “Chân-Quê” hàng tháng tại các Trung-Tâm-Điều-Dưỡng (Nursing-Home) vùng quận Cam, California – Hoa-Kỳ không ngừng nghỉ suốt 12 năm qua. Diamond Bích-Ngọc luôn sưu-tầm và tự thiết-kế các trang-phục lạ, thật đẹp mắt – thay đổi theo từng mùa cho tất-cả các ca-nhạc-sĩ than-gia thiện-nguyện. Như tháng 10 (chủ-đề mừng lễ Halloween; thay vì là những bộ custumes ma-quái); chúng tôi đã dầy công đi về miền Thượng-Du Việt-Nam; sưu-tầm hàng Thổ-Cẩm đem đến trình-diễn cho khán-giả; đặc-biệt là những bệnh-nhân, y-tá, bác-sĩ người Mỹ trong Nursing-Home; giới-thiệu nét đặc thù, về nền văn-hóa độc đáo Việt-Nam.

Các thiện-nguyện-viên cũng luôn chuẩn bị chu-đáo cho chương-trình, như anh Quốc-Hùng (Black Caps) phải soạn hòa-âm, gửi MP3 qua Email cho từng thành-viên nghe trước, nhạc-sĩ kỳ-cựu Châu-Hiệp phối-khí bằng thanh-âm guitarist điêu-luyện, rất tuyệt-vời! Các ca-nhạc-sĩ: Trung-Chánh, Dr. David Bui, M.D, Thanh-Hằng, Thùy-Liêm, Lan-Anh tập dợt kỹ càng sao cho đúng nhịp, đúng âm-vực của từng nốt, từng cung bậc, giai-điệu nhạc trước ngày biểu-diễn. Riêng ca-nhạc-sĩ Thái-Nguyên và Diamond Bích-Ngọc, cuối tuần phải lái xe chở đầy nhạc-cụ đi và về mỗi lượt 5 tiếng đồng-hồ từ nhà đến các Nursing-Home không quản ngại đường xa đầy bất trắc (vì “Tejon Pass” hiểm-trở - mùa Đông tuyết rơi và mùa Hè thì dễ cháy rừng; đôi khi cảnh-sát chặn tất-cả xe cộ không cho vượt đèo để tránh hiểm-nguy!) Xem thêm chi-tiết qua “link”: http://www.vietbao.com/D_1-2_2-44_4-180440_5-15_6-1_17-1_14-2_15-2_10-5138_12-1/

Những cố-gắng về nội-dung lẫn hình-thức này không ngoài mục đích phục-vụ cho khán-giả - dù họ chỉ là những bệnh-nhân yếu đuối; không đủ sức trao tặng lại bằng những tràng pháo tay nồng nàn như trong các buổi đại-nhạc-hội ngoài đời. Nhưng qua cách tỏ bày sự cảm-kích, trân-quý bằng ánh mắt rạng ngời vui sướng hồn-nhiên, nét cười hay những giọt nước mắt cảm-động yêu-thương, những bắt tay xiết chặt không muốn xa rời của khán-giả đối với các thiện-nguyện-viên.Tất-cả biểu-hiện này phải chăng đã quá đủ bù đắp cho sự hy-sinh về thời-gian, công sức & vật-chất của gia-đình “Chân-Quê”;làm hành-trang tiếp tục cho chúng tôi trên bước đường phụng-sự tha-nhân.

Để đúc kết bài viết này, xin phép mượn những câu thơ rất “Thiền”, rất dễ-thương của thi-sĩ Du-Tử-Lê để tặng cho chính mình và tất-cả các thiện-nguyện-viên trên toàn thế-giới:

“Thế giới vì em sẽ dịu hiền
Biển đời phút chốc bỗng bình-yên
Cánh chim tịch tịch miền vô niệm
Vô chấp em ngồi như Quan-Âm”


(Trích từ thi-phẩm: Vì Em Tôi Đã Làm Sa-di)

Diamond Bích-Ngọc (sưu-tầm & biên soạn - www.diamondbichngoc.com)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.