Hôm nay,  

Chuyện Cơm Có Thịt, Cơm Có Dòi

22/11/201200:00:00(Xem: 10405)
Do một bức thư thỉnh nguyện gởi lên bộ trưởng Bộ Xã Hội của “nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” để xin cứu xét đơn cho mau được thành lập một quỹ cứu trợ gọi là “Cơm Có Thịt”, với sự tham gia đóng góp của người Việt ở bốn phương, mà người ta mới biết hiện nay tại quê nhà bữa cơm của trẻ em tại trường học ở những vùng xa thành phố chỉ là cơm chan với canh rau nhợt nhạt, không có chút cá thịt gì cả.

Theo nội dung của thư thỉnh nguyện này thì đơn đã được nộp đúng thủ tục nhưng đã hơn năm tháng rồi mà vẫn chưa được cứu xét vì lý do “cấp trên quá bận nhiều công tác”. Trước tình trạng này, người ta cảm thấy khó hiểu vì đây là một nước tự xưng là xã hội chủ nghĩa nhưng việc chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ em lại không được chú trọng từ căn bản, dầu rằng nhà nước vẫn thường công bố trên sách báo những thành tích vẽ vang về phương diện này.

Nhưng người ta cũng nhận thấy, qua báo chí và truyền hình, một hình ảnh thật trái ngược là các vị lãnh đạo nhà nước như thủ tướng, phó thủ tướng, bộ trưởng…, thì bên cạnh việc chưng diện bảnh bao đúng điệu, mặt mủi lúc nào cũng hồng hào mập béo, chứng tỏ có được một sự dinh dưởng quá đầy đủ. Các bà thì lại còn thường ngày phấn son loè loẹt, phưng phức thơm ngát mùi nước hoa, chứng tỏ một sự tiêu xài xa xỉ trong lúc người dân đang cùng cực..

Một mặt khác, tin tức trong nước cũng còn cho biết là bửa cơm của công nhân ở các công xưởng, dù là có vốn đầu tư ngoại quốc đi nữa, vẫn thường có dòi trong các món ăn. Lý do chắc chắn là do sử dụng nguyên liệu, nhất là thịt cá, đã quá hư thối. Nghe nói, trước đây, bửa cơm của công nhăn các nhà máy cũng vì quá đạm bạc, thiếu cá thịt, nên bị công nhân phản đối đòi cải thiện.

Cũng trước đây không lâu, trong những chương trình truyền hình xrm được ở nước ngoài, người ta được nhìn thấy hình ảnh đời sống ăn ờ hằng ngày vô cùng cơ cực của công nhân các nhà máy ở các khu công nghệ bên cạnh thủ đô Hà Nội. Chổ ở thì vô cùng chật chội và tồi tệ, ăn uống thì vô cùng đạm bạc. Người ta cũng nhìn được cảnh trẻ em phải bươi rác để kiếm thức ăn ở một làng miền nam Việt Nam.

Ngày nay thì bửa cơm công nhân đã được cải thiện với thêm cá thịt. Nhưng là cải thiện với nguyên liệu thịt cá hư thối cho nên có dòi trong các món ăn. Dĩ nhiên công đoàn, cơ quan chính thức để điều khiển các tập thể công nhân, phải biét những chuyện tồi tệ này nhưng chắc là vì có chỉ thị từ cấp trên nên phải cho ém nhẹm những chuyện này vì cần lấy lòng các chủ đầu tư.

Chính vì vậy mà người ta nhận thấy, cùng với gà lậu, hàng tấn tấn thịt và mỡ hư thối được nhập vào Việt Nam, phần lớn là từ Trung Quốc. Chắc chắn là những nguyên liệu hư thối này đã và sẽ được sử dụng để làm những món ăn cho người dân nghèo khó trong nước, đặc biệt là cho công nhân trong các nhà máy trên toàn quốc, mà các món ăn được thấy có dòi như vậy.

Trước hai tình trạng trên, một bên là cơm không có cá thịt cho trẻ em ở trường học, một bên là cơm có dòi cho công nhân, đều là biểu tượng của xã hội Việt Nam hiện nay. Người ta còn nhớ, vào sau năm 1975, những khẩu hiệu của nhà nước đề cao rằng trong vòng 5-10 năm nữa, mọi người dân trong nước sẽ có đời sống sung sướng, no ấm vời đầy đủ với cơm cá thịt, bơ sữa…

Nay đã sau gần 40 năm rồi mà người ta thấy chỉ có thành phần lãnh đạo của đảng là được như vậy mà thôi. Còn người dân bình thường thì có phần cơ cực hơn trước đó nhiều. Không hiểu những lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay có nhớ đến những khẩu hiệu mà họ đề cao trước đó hay không và có nhận biết được sự mâu thuẩn đang diễn ra trước mắt hay không. Hay đó chỉ là chiêu bài để phĩnh gạt người dân.


Hiện nay, để có được sự đầu tư của nước ngoài, nhà nước Việt nam đang dùng yếu tố “lao động rẽ” như căn bản để quyến rũ các doanh nghiệp sản xuất nước ngoài đầu tư vào để giới lao động có công ăn việc làm và nhà nước cộng sản mới đứng vững. Do đó, ngoài việc “cướp đất để làm nhà máy” và “bóc lột sức lao động”, nói theo thành ngữ của chế độ cộng sản, bửa cơm công nhân có dòi là hậu quả tất nhiên của sự triệt để khai thác yếu tố “lao động rẽ” của công nhân Việt Nam hiện nay.

Trước vấn đề này, nhóm lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ viện cớ là người dân cần phải hy sinh trong giai đoạn này vì nhà nước cần phải huy động các nguồn tài nguyên, kể cả đất đai và đồng tiền, để triễn khai những dự án phát triễn cho đất nước.

Nhưng qua những hậu quả tệ hại vô cùng khủng khiếp như muôn nghìn tỷ đồng đã bị hoang phì một cách vô tư phi lý vì có sự bảo kê thúc đẩy cho việc làm ăn bê bối và tham nhũng ở các tập đoàn kinh tề như Vinashin, Vinalines…, các doanh nghiệp nhà nước, các ngân hàng lớn.

Vì vậy, viễn ảnh của một đời sống sung túc cho người dân trở nên thật quá xa vời, nếu không muốn nói là vô vọng trong vì hoàn cảnh nợ nần mà đất nước và con cháu của moi người dân phải gánh trả đang chồng chất cao ngất như hiện nay.

Gần đây nữa, việc xây dựng đập Sông Tranh 2 ở Quảng Nam cũng cho them một hậu quả như vậy nữa. Do việc “thông đồng ăn chia” với nhau mà việc khảo xét cơ bản, thiết kế cũng như thi công cho cả đến việc nghiệm thu đánh giá công trình với vốn đầu tư trên năm nghín tỷ đồng đều đã được thực hiện một cách không kỹ càng chính chắn, nếu không muốn nói là vô cùng cẩu thả.

Hậu quả tất nhiên là công trình đã không những làm phung phí trên năm nghìn tỷ đồng từ tiền của người dân một cách vô ích mà còn đang có thể làm nguy hại đến gần 40.000 sinh mạng người dân đang sinh sống ở hạ lưu trong trường hợp đập này bị vỡ ra.

Tuy nhiên, dù có những sự việc bê bối tày trời xãy ra rành rành trước mắt như vậy, nhưng người ta vẫn thấy “đương sự chính của vấn đề”, đúng ra là phải nhận chịu trách nhiệm mà từ chức, thì lại vẫn thấy nhỡn nhơ bình thản vì không bị một chế tài gì cả.

Cùng lắm thì ra trước cái quốc hội của đảng nói mấy lời xin lỗi là quốc hội phải chấp thuận cho “huề cả làng”. Cái quốc hội này, vì vậy, thay vì truy xét chế tài đối với những việc làm bê bối như vậy, thì lại đang phải cho bàn luận để sửa đổi cái hiến pháp nhưng cũng chỉ nhằm gia tăng sự độc tôn quyền cai trị đất nước cho đảng Cộng Sản.

Từ những sự việc trên, người ta nhận thấy nếu chỉ lấy một phần nhỏ của những số tiền mà những kẽ vô tài cán nhưng được đảng bảo kê thúc đẩy cho hoang phí khủng khiếp đến hiện nay sử dụng vào việc gia tăng dinh dưởng cho trẻ em, vốn là mầm non của đất nước, thì hiệu quả của sự đầu tư này cho sự phát triễn đất nước sau này là có ý nghĩa chắc chắn.

Còn nếu, đảng và nhà nước Cộng Sản không muốn làm việc này thì hãy chấp thuận mau lẹ, không phải chần chừ, để cho cái quỹ cứu trợ “Cơm Có Thịt” với sự tham gia đóng góp của người Việt ở bốn phương được mau thành lập và hoạt động để qia tăng dinh dưởng cho trẻ em trong nước hiện trông thấy rất ốm yếu, chứ không được mập mạnh như những lãnh đạo của đảng và nhà nước.

Nhưng nếu quỹ cứu trợ này được chấp thuận thành lập nhưng với điều kiện có sự tham gia chỉ đạo của đảng vào thành phần nhân sự hoạt động thì cũng có cái nguy cơ là các món ăn cho bửa cơm trẻ em ở trường học sẽ có dòi như trường hợp bửa cơm công nhân.

Vấn đề là các lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam hiện nay có còn cái lương tâm của con người hay không.

Võ Ngọc Phước

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau trận Phước Long 6/1/1975, Hoa Kỳ im lặng, Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát Đình chiến bất lực, cuộc chiến đã đến hồi chấm dứt. Ngày 10/3/1975, Thị xã Ban Mê Thuột bị tấn công thất thủ sau hai ngày chống cự, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, cao nguyên Trung phần lọt vào tay cộng sản. Ngày 8/3/1975, quân Bắc Việt bắt đầu tấn công vào Quảng Trị, Quảng Trị mất, rồi các tỉnh miền Trung lần lượt mất theo.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất hứa.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.
Bất kỳ chiến lược nào để giảm bớt mối đe dọa từ các chính sách xâm lược của Trung Quốc phải dựa trên sự đánh giá thực tế về mức tác động đòn bẩy của Hoa Kỳ và của các cường quốc bên ngoài khác đối với sự tiến hóa bên trong nội bộ Trung Quốc. Ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài đó có giới hạn về cấu trúc, bởi vì đảng sẽ không từ bỏ các hoạt động mà họ cho là quan trọng để duy trì sự kiểm soát. Nhưng chúng ta quả thực lại có những khí cụ quan trọng, những khí cụ này hoàn toàn nằm ngoài sức mạnh quân sự và chính sách thương mại. Điều ấy là những phẩm chất “Tự do của người Tây phương” mà người Trung Quốc coi là điểm yếu, thực sự là những sức mạnh. Tự do trao đổi thông tin, tự do trao đổi ý tưởng là một lợi thế cạnh tranh phi thường, một động cơ tuyệt vời của sự cách tân và thịnh vượng. (Một lý do mà Đài Loan được xem là mối đe dọa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, chính là vì nó cung cấp một ví dụ với quy mô tuy nhỏ nhưng lại hùng hồn về sự thành công của hệ thống chính trị và kin
Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet). Hồ Chí Minh đồng ý.
Đúng vậy, sau gần nửa thế kỷ năm nhìn lại vẫn thấy biến cố 30.04.1975 xảy ra quá bất ngờ đối với toàn thể dân VN chúng ta. Bằng chứng hiển nhiên là rất nhiều cấp lãnh đạo VNCH trong chánh quyền và trong quân đội không ngờ được nên đành phải bị bắt đi tù cải tạo cả hàng chục năm để rồi chết dần mòn trong rừng thiêng nước độc. Nói chi đến người dân bình thường thiếu thông tin của cả 2 miền Nam Bắc tất cả không ai cảm thấy hoặc đoán trước được chuyện sẽ xảy ra. Sự thực này chúng ta có thể đọc thấy rõ trên các tài liệu của 2 miền.
Chúng ta chỉ cần vài thập niên để có thể tạo dựng lại một nền kinh tế lành mạnh và hiệu quả nhưng e sẽ mất đến đôi ba thế hệ mới loại bỏ dần được những thói hư (và tật xấu) vừa nêu. Vấn đề không chỉ đòi hỏi thời gian mà còn cần đến sự nhẫn nại, bao dung, thông cảm (lẫn thương cảm) nữa. Nếu không thì dân tộc này vẫn sẽ tiếp tục bước hết từ bi kịch sang bi kịch khác – cho dù chế độ toàn trị và nguy cơ bị trị không còn.
Ôn dịch Vũ Hán gây nên một cơn khủng hoảng chưa từng thấy trong khối các nước nghèo khó khiến 100 quốc gia trong số 189 thành viên IMF hiện đang cầu cứu cơ quan quốc tế này viện trợ khẩn cấp. Tưởng cần nên tìm hiểu bối cảnh của những quốc gia đang phát triển song song với các phân tích về tác động của khủng hoảng.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.