Hôm nay,  

Vực Thẳm Ngân Sách

05/12/201200:00:00(Xem: 16625)
Liều thuốc đắng cho kinh tế Hoa Kỳ: giảm chi và tăng thuế

Hoa Kỳ mất hai năm và sáu tỷ Mỹ kim cho cuộc tổng tuyển cử 2012 để bầu lại một hệ thống lãnh đạo đã từng gây ra ách tắc chính trị từ năm 2010. Đảng Dân Chủ kiểm soát Hành pháp và Thượng viện, đảng Cộng Hoà giữ đa số tại Hạ viện và 30 chức vụ Thống đốc tiểu bang. Tình trạng chính trị lưỡng cực ấy không giải quyết được bài toán ngân sách trong hai năm qua và nay lại hai đảng lại tái đấu về chi thu trước sự phân vân của dân chúng và hoài nghi của thị trường.

Nói về bối cảnh, Hoa Kỳ đã qua ba chục năm chi tiêu hào phóng và vay mượn quá sức nên đến hồi trả nợ kể từ năm 2007. Đấy là bối cảnh chung và có nguyên nhân "lưỡng đảng" lẫn công tư.

Cả chính quyền lẫn tư nhân (các hộ gia đình và doanh nghiệp) đều đi vay trong mấy thập niên và nay phải cắt giảm chi tiêu để trả nợ. Sự chuyển động chậm rãi ấy mới giải thích những hoạn nạn của năm năm qua khi kinh tế bị suy trầm từ cuối năm 2007 rồi bị nhồi trong cuộc khủng hoảng tài chánh năm 2008. Các chính khách mị dân thường quy tội cho Chính quyền George W. Bush là gây ra khủng hoảng vì tăng chi bừa phứa và mở ra hai cuộc chiến – Afghanistan và Iraq – mà không tăng thuế và còn đồng loạt cắt giảm tô suất thuế qua hai đợt 2001 và 2003.

Sự thật lại không đơn giản như vậy. Sự thật là nước Mỹ đến hồi trả nợ, không khác gì hoàn cảnh của hai khối kinh tế công nghiệp hóa kia là Âu Châu và Nhật Bản. Cho nên các biện pháp kích thích kinh tế cổ điển như qua ngân sách (tăng chi và giảm thuế) và tiền tệ (hạ lãi suất và bơm tiền) đều chậm có hiệu quả.

Trong khung cảnh đó, sau khi thắng cử năm 2008, Chính quyền Obama còn tăng chi và muốn cải tạo xã hội nên nâng bội chi ngân sách lên mức kỷ lục, mỗi năm ngàn tỷ đô la trong bốn năm liền.

Khi ngân sách bị bội chi thì chính quyền phải đi vay nên khoản công trái - nợ của khu vực công quyền – đã cao bằng Tổng sản lượng quốc gia GDP, hãy tính cho tròn là 15 ngàn tỷ. Trong khi ấy, kinh tế chưa phục hồi và thất nghiệp vẫn mấp mé 8% và con số khiếm dụng thực sự (thất nghiệp toàn thời và bán thời) còn cao gấp đôi.

Bối cảnh ấy giải thích bài toán lưỡng nan hiện nay là phải kích thích sản xuất để giảm trừ thất nghiệp và đồng thời tiết giảm công chi để dần dần quân bình lại ngân sách.

Quốc hội khóa 112 được bầu lên từ năm 2010 đã có một thay đổi là đảng Cộng Hoà chiếm lại đa số tại Hạ viện nên đòi giới hạn công chi để giảm dần bội chi ngân sách trong 10 năm tới. Nếu không, Quốc hội không cho phép chính quyền đi vay thêm. Đảng Dân Chủ đồng ý trên nguyên tắc là phải giảm chi, nhưng vẫn muốn bảo vệ thành quả cải tạo xã hội đã thu được từ năm 2006 và chú trọng nhiều hơn đến việc tăng thuế. Họ nhấn mạnh tới yếu tố mang tính chất đấu tranh giai cấp, và ăn khách, là phải tăng thuế nhà giàu.

Suốt năm 2011, trận đánh về ngân sách giữa hai hướng giảm chi và tăng thuế đã không ngã ngũ và đôi bên đành đồng ý với một giải pháp tạm, do một siêu ủy ban của hai đảng đề nghị và được Tổng thống Obama ban hành ngày mùng hai Tháng Tám: cho phép nâng cao định mức đi vay, nhưng hai đảng phải thỏa thuận về một kế hoạch chấn chỉnh chi thu trong 10 năm tới. Nếu không, một số quyết định sẽ được tự động ban hành từ đầu năm 2013: mặc nhiên cắt giảm công chi và thu hồi các biện pháp giảm thuế của Chính quyền Bush (năm 2001 và 2003) và Chính quyền Obama (năm 2009). Chấm dứt việc giảm thuế có nghĩa là trở lại thuế suất cao hơn, vào trước năm 2001, tức là tăng thuế.

Trong suốt năm 2012, đôi bên không đạt thỏa thuận về việc chấn chỉnh này nên kể từ mùng hai Tháng Giêng năm 2013, biện pháp tự động sẽ được áp dụng, làm kinh tế gánh thêm nợ vì thuế và hụt mất một số mục chi tổng cộng khoảng 500 tỷ trong số bội chi ngàn tỷ. Khi sản xuất còn èo uột, ở mức 2% một năm là mừng, nếu biện pháp tăng thuế và giảm chi đó được áp dụng, Tổng sản lượng 15 ngàn tỷ sẽ hao hụt và kinh tế có thể bị suy trầm mất chừng 12-15 tháng, bốn năm quý.

Vì vậy, người ta mới nói đến "vực thẳm ngân sách" hay "tận thế thuế vụ" Taxmageddon.

Các kinh tế gia tranh luận về hiệu ứng của việc cắt giảm 500 tỷ - hay ít hơn nếu đôi bên tiến tới một số thỏa thuận là giảm bao nhiêu và tăng thuế ngần nào, cho những ai - đối với sinh hoạt kinh tế.

Sự thật là kinh tế có thể lại trôi vào suy trầm nữa, sau vụ suy trầm lần trước từ Tháng 12 năm 2007 đến Tháng Bảy năm 2009, nhưng sau đó tình hình sẽ khả quan dần. Đây là một nhận định của cơ quan độc lập có nhiệm vụ nghiên cứu ngân sách cho Quốc hội là CBO qua phúc trình mới nhất, được công bố hôm mùng tám Tháng 11.

Nhưng các chính khách đều ngại một vụ suy trầm nữa vào năm 2013 sẽ ảnh hưởng đến cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ vào năm 2014. Họ bèn đổ lỗi cho nhau, cũng với lập luận mị dân của một cuộc tranh cử ngay sau khi vừa hoàn tất tổng tuyển cử. Truyền thông đại chúng của Mỹ thì chỉ nhắc lại các lập luận đó theo thiên kiến chính trị riêng và đa số dân chúng không rõ vì sao lại có "vực thẳm ngân sách".

Cũng theo truyền thống, đảng Dân Chủ rất khéo tuyên truyền còn đảng Cộng Hoà thì chẳng biết giải thích cho rõ tình hình thực tế của một siêu cường mắc nợ. Kết quả bầu cử vừa qua có cho thấy sự khác biệt đó giữa hai đảng. Và lần này, đảng Cộng Hoà có thể lại mắc bẫy nữa khi mà tuần qua Hành pháp và Thượng viện Dân Chủ không hề thỏa hiệp và còn đề nghị tăng thuế gần 1.600 tỷ, tăng chi thêm 50 tỷ và không đặt ra định mức đi vay cho Quốc hội.

Nhưng căn bệnh chi thu vẫn còn nguyên vẹn và cần một liều thuốc đắng.

Từ ba chục năm nay, dân Mỹ đã chi tiêu và vay mượn quá sức, ngày một nhiều hơn cho đến năm 2007 mới thấy bàng hoàng. Tổng số nợ đủ loại của các hộ gia đình đã tăng vọt trong suốt 30 năm. Từ một ngàn 500 tỷ đô la vào năm 1980, khoản nợ này lên gấp đôi trong 10 năm (ba ngàn tỷ), rồi gấp sáu trong 10 năm kế tiếp (chín ngàn tỷ vào năm 2001) trước khi lên tới đỉnh là hơn 13 ngàn tỷ vào năm 2007. Đây là một nỗ lực chẳng phải là lưỡng đảng mà của toàn dân! Nhờ lãi suất hạ, tiền rẻ và vay muợn dễ dàng, kể cả vay mượn ngoại quốc, nước Mỹ hồn nhiên tiêu xài quá mức, thổi lên bong bóng đầu tư về cổ phiếu (2000) rồi địa ốc (2005) và bắt đầu phải trả nợ.

Khi cần tiết giảm chi tiêu để trả nợ thì tài hóa bớt lưu thông và kinh tế bị suy trầm, đó là hoàn cảnh của vụ Tổng suy trầm 2008-2009. Mặc dù như vậy, tính đến quý hai năm nay, khoản nợ của các hộ gia đình vẫn ở mức 12 ngàn 900 tỷ đô la, so với 15 ngàn tỷ của Tổng sản lượng.

Yếu tố quan trọng nhất, gần như thuộc về văn hoá, là kinh tế Hoa Kỳ lệ thuộc vào tiêu thụ. Nửa thế kỷ trước, tiêu thụ ở khoảng 62% của Tổng sản lượng GDP, ngày nay mức lệ thuộc đó là 71%. Trong bước ngoặt của việc tư nhân giảm chi để trả nợ sau 30 năm hồ hởi, nhà nước bèn bù vào số hao hụt bằng biện pháp tăng chi kỷ lục và mắc nợ ngập đầu. Mà vẫn không kích thích được sinh hoạt sản xuất.

Khi nâng mức công chi đến ngàn tỷ một năm thì khu vực công quyền đã chẳng giải quyết được bài toán sản xuất và thất nghiệp mà chỉ nâng mức công trái và sẽ phải trả tiền lời. Bế tắc của biện pháp kích cầu bằng ngân sách khiến Ngân hàng Trung ương đã hạ lãi suất tới số không và ba lần in bạc bơm tiền vào kinh tế - mà chưa thấy hiệu quả.

Chỉ vì cùng với nỗ lực tăng chi để kích cầu, Chính quyền Obama còn tiến hành cải tạo xã hội và mở rộng việc điều tiết và kiểm soát thị trường với rất nhiều luật lệ mới.

Tình trạng đó gây khó khăn và bất trắc cho các doanh nghiệp khiến các cơ sở kinh doanh lớn nhỏ đều có sẵn hiện kim, tiền mặt, và hơn ngàn tỷ chứ không ít, mà vẫn ngần ngại đầu tư. Nạn ách tắc chính trị trong Quốc hội hai đầu chẳng giúp gì thêm cho tâm lý e ngại đó. Tinh thần đấu tranh giai cấp và kết tội tham lam cho những ai có tiền đầu tư – bọn nhà giàu đáng ghét – càng khiến doanh gia ngồi trên núi bạc chờ thời. Ách tắc chính trị dẫn đến bế tắc kinh tế.

Giải pháp được gọi là vực thẳm ngân sách - một từ do Thống đốc Ngân hàng Trung ương nghĩ ra và nói tới - gồm có hai phần chua ngọt. Chua là biện pháp mặc nhiên cắt giảm công chi và ngọt là việc tăng thuế nhà giàu. Hãy nói đến thực đơn chua ngọt đó.

Khi bội chi ngân sách được giảm dần, chính quyền sẽ bớt đi vay và tài nguyên dành cho việc vay mượn đó qua công khố phiếu có thể được giành lại cho sản xuất. Trước mắt là giảm dần khoản tiền lời mà công khố phải trang trải một cách đều đặn khi đi vay. Đấy là quyết định hợp lý của siêu ủy ban năm 2011 khi đề ra biện pháp tự động giảm chi, gọi là "sequestration". Nó hợp lý vì thị trường trái phiếu không tiếp tục cho nhà nước vay với lãi suất rất rẻ như vậy trong khi nước Mỹ cứ mấp mé vỡ nợ. Có ngày họ sẽ đòi phân lời trái phiếu cao hơn thì công quỹ sẽ phá sản. Đây là ta chưa nói đến một vực thẳm còn sâu hơn nữa là quỹ an sinh và y tế - xin để kỳ khác.

Nhưng giảm chi là quyết định hợp lý mà không hợp tình vì nhiều người sợ rằng khoản phúc lợi xã hội của họ sẽ bị cắt. Họ dồn phiếu cho đảng Dân Chủ, một đảng có tiếng là thương dân nghèo và bảo vệ thành quả cải tạo xã hội, và họ gây áp lực để tăng thuế nhà giàu. Áp lực này là một lý luận hợp tình.

Thiếu số 1% những người có lợi tức cao nhất (lợi tức chứ không phải tài sản), đã thấy lợi tức trung bình của họ tăng hơn 90% trong các năm sau vụ Tổng suy trầm 2008-2009. So với trung bình ở khoảng 50% trước đó (từ 1993 đến 2009) thì đấy là bước nhảy vọt vĩ đại trong khi lợi tức của người dân nói chung đều giảm. Cho nên, nếu các triệu phú có chịu thêm một gánh nặng thuế khóa thì cũng hợp tình!

Nhưng chuyện ấy lại không hợp lý vì có thể gây phản tác dụng cho kinh tế.

Sản lượng kinh tế quốc gia chỉ có thể tăng nhờ dân số lao động cộng với mức gia tăng năng suất. Nhiều người làm việc hơn, với hiệu năng cao hơn thì sẽ sản xuất ra nhiều của cải hơn. Khi các chính khách nói đến chuyện tạo thêm việc làm để giải quyết nạn thất nghiệp, là nâng cao dân số lao động, thì đấy là dân số lao động trên thị trường tư doanh. Chứ lực lượng công chức là thành phần đóng góp rất ít cho sản xuất và lợi tức của họ chỉ là tiền thuế của dân.

Mà khu vực tư doanh đang chờ thời và ngần ngại đầu tư nên sản lượng kinh tế không tăng và thất nghiệp cũng chẳng giảm. Số việc làm trong khu vực tư chỉ tăng khi có ai đó muốn cung cấp loại hàng hóa và dịch vụ mà thị trường chịu mua. Muốn như vậy thì phải có đầu tư và đầu tư vào những ngành có năng suất cao hơn trước thì mới có lời.

Bọn nhà giàu triệu phú tiêu biểu là thành phần có khả năng đầu tư như vậy.

Hãy cho rằng họ có lợi tức bạc triệu trong một năm và dự trù mất 40% vì trả đủ loại thuế, còn lại 600 ngàn cho hai nhu cầu: 1) chi tiêu để duy trì mức sống sa hoa đáng ghét và 2) đầu tư hay tiết kiệm cho tương lai. Nếu thuế suất mà tăng, giả dụ thêm 5%, họ sẽ bớt các mục chi dụng phù phiếm, là tiêu xài ít hơn và đánh sụt số cầu trên thị trường, ít ra cũng khoảng 5%. Giải pháp kia là giảm mức đầu tư hoặc tiết kiệm, thí dụ như cũng 5%.

Ai sẽ được cái khoản "mất" này, giả dụ là 5%? Nhà nước. Và được như vậy để làm gì? Tăng lương công chức hay mức trợ cấp cho dân nghèo? Ngược lại, phần tiết giảm 5% vì gánh nặng thuế khóa sẽ ảnh hưởng thế nào đến sinh hoạt kinh tế? Những câu hỏi thường thức ấy cho thấy quyết định tăng thuế CŨNG có hậu quả kinh tế chứ không hẳn là vô hại.

Hậu quả đầu tiên là gây thêm tâm lý bất an trong một xã hội xưa nay vẫn quý trọng những người dám lấy rủi ro để kinh doanh và làm giầu. Ngày nay, làm giầu có thể là cái tội rất đáng gọt đầu.

Trong khi ấy, nếu nhìn vào thống kê về ngân sách từ mấy năm qua, nguồn thu về thuế lợi tức đã tăng trong thực tế dù với tô suất thấp: nghĩa không phải quyết định hạ thấp thuế suất đã làm giảm số thu ngân sách và tăng mức bội chi. Ngân sách bị thiếu hụt vì tăng chi quá nhiều và vì kinh tế sa sút đã thu hẹp căn bản tính thuế.

Do đó, nhìn xa hơn vực thẳm ngân sách năm tới, người ta thấy ra một hố sâu văn hóa của nước Mỹ về chuyện làm giầu. Đó là công hay tội? Còn gánh nợ lưu cữu từ ba chục năm nay, ai sẽ trả? Thế hệ con cháu sau này? Chúng có biết không?

Tương lai đó nó vượt xa tầm nhìn của các chính khách vì hai năm tới đây họ sẽ lại phải xin phiếu của dân. Lấy tiền của bọn nhà giàu để mua phiếu của dân nghèo là một giải pháp chính trị hấp dẫn. Nhưng không là giải pháp kinh tế đã làm nên sức mạnh của Hoa Kỳ.

Các nước trên thế giới hẳn là rất vui về quyết định đó của cử tri Mỹ: Hoa Kỳ sẽ sớm chấm dứt kỷ nguyên siêu cường độc bá.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.