Hôm nay,  

Lễ Giáng Sinh

20/12/201200:00:00(Xem: 13175)
Lễ Giáng sinh, còn được gọi là lễ Thiên Chúa giáng sinh, Christmas, Xmas hay Noel (Noel là từ viết tắt từ chữ Emmanuel của tiếng Pháp, có nghĩa là: Thiên chúa ở với chúng ta). Chữ Christmas gồm có chữ Christ và Mas. Chữ Christ là tước vị của Đức Jesus (Giêsu). Chữ Mas là chữ viết tắt của Mass (thánh lễ). Khi chữ Christ và Mas viết liền thành ra chữ Christmas. Christmas có nghĩa là ngày lễ của Đấng Christ, tức là ngày lễ Giáng sinh của Đức Jesus. Chữ Christmas và Xmas đều có ý nghĩa như nhau. Vì chữ Hy lạp viết chữ Christ là Christos, người ta dùng phụ âm X để tượng trưng cho chữ Chi, rồi thêm chữ Mas kế cận để thành chữ Xmas. Như vậy Xmas cũng có nghĩa là ngày lễ của đấng Christ.

1- Chúa sinh ra đời: Theo kinh điển của đạo Công giáo (Catholic), Chúa Jesus do Đức Mẹ Đồng Trinh, tự nhiên mang thai mà sinh ra. Sự thụ thai này do quyền lực thần diệu của Thượng Đế tạo ra, trong khi bà Mary còn đồng trinh. Chúa Jesus đã sinh vào đêm 24 tháng 12 (DL), trong một chuồng ngựa (stable) tại Bethlehem thuộc tỉnh Judea của nước Do Thái (Israel), lúc bấy giờ đang dưới quyền thống trị của đế quốc La Mã, khoảng năm 6 (TCN) đến năm 6 (SCN), và được đặt trong máng cỏ (manger) vì lúc đó trong nhà trọ (inn) không còn một phòng trống nào. Sau đó, Chúa Jesus được Đức Mẹ Mary và ông Joseph nuôi nấng tại Nazareth, một thành phố ở phía bắc Israel.

Khi Chúa Jesus 12 tuổi, được đưa đến một giáo đường ở Jerusalem và đã làm kinh ngạc các giáo sư về môn Mosaic Law (kinh luật Hồi giáo), với sự hiểu biết thông thái của ngài.

2- Chúa Jesus hành đạo: Khi lớn lên, Chúa Jesus nhận 12 người Tông Đồ, cùng ngài đi khắp nơi ở Palestine để giảng đạo, chữa bệnh, và thực hiện các phép lạ và cũng từ đấy tin tưởng Đức Jesus Christ là vị chúa cứu thế.

Ngài đi rao giảng lời của Thượng Đế, nên có rất nhiều tín đồ và đồng thời cũng có nhiều kẻ thù. Cuối cùng, Chúa Jesus bị tên Judas Iscariot phản bội, bị Pontius Pilate người lãnh đạo dân Do Thái lúc bấy giờ kết án, và bị chính quyền La Mã đóng đinh trên thập tự giá. Cũng theo kinh điển của Thiên Chúa giáo, ngài đã cải tử hoàn sinh, nên sau này có lễ Phục sinh (Easter). Theo Kitô giáo Tây phương, ngày lễ Phục sinh tất cả rơi vào ngày Chủ nhật, giữa ngày 22 tháng 3 và ngày 25 tháng 4. Ngày kế tiếp, thứ Hai, được công nhận là ngày nghỉ lễ chính thức của nhiều quốc gia trên thế giới.

3- Mừng ngày Lễ Giáng sinh: Có một số nước ăn mừng Lễ Giáng sinh vào ngày 25 tháng 12, một số nước khác lại vào tối

ngày 24 tháng 12. Tuy nhiên, lễ đêm 24 tháng 12, thường thu hút tín đồ tham dự đông đảo hơn. Ngày nay, ở Việt Nam, lễ Giáng sinh đã được coi là một ngày lễ chung, được tổ chức vào tối 24 cho đến ngày 25 tháng 12. Tín đồ Công giáo tại Việt Nam hân hoan mừng Chúa Giáng sinh, cùng với nhân dân trên khắp thế giới. Ngày lễ Giáng sinh, chưng bày vô cùng rực rỡ.

Những điều quan trọng biểu hiện vào dịp lễ Giáng sinh:

4- Ông già Noel và Tặng quà Giáng sinh:

Ngày lễ Giáng sinh, thường xuất hiện ông già Noel, mặc quần áo và đội mũ màu đỏ, giày đen, tóc và râu trắng như tuyết. Ông cỡi xe tuần lộc (xe do hưu, nai kéo) trên không trung. Ông già Noel tiếng Pháp gọi là Père de Noel, tiếng Anh-Mỹ là Santa Claus. Tương truyền ông Nicolaus là hình ảnh ông già Noel, ông sinh ở quận Patara thuộc Thổ Nhĩ Kỳ, mất ngày 6 tháng 12, không rõ năm, sau đó ông được phong thánh. Ông là người giàu có, tính tình nhân từ, hay giúp đỡ người nghèo khó, thủy thủ, nhất là trẻ em nghèo khổ. Vào dịp Giáng sinh, ông thường đem quà qua ống khói, tặng cho các em nhỏ đang ngủ và thường để quà trong chiếc tất (vớ). Quà tặng là tiền hay bánh kẹo, để gần nơi lò sưởi, cây Noel hay bên giường ngủ cho các em. Phong tục này khuyến khích các em làm điều thiện và siêng sắn học tập để được tặng quà.

Điển tích tặng quà: Chúa Jesus chào đời tại Bethlehem trong một cái máng cỏ, có ba vị vua phương Đông (nay thuộc lãnh thổ Iran và Syria) đã đến để bày tỏ sự thành kính của mình. Họ mang đến ba món quà quý giá: Vàng, trầm hương và mộc dược. Những người dân thường thì đem tặng hoa quả, và những gì mà họ có. Hang đá nơi Chúa giáng sinh được đánh dấu bằng một ngôi sao bạc nhiều cánh. Trên ngôi sao có khắc dòng chữ Latin: “Hic de virgine Maria Jesus Christus natus est” (Tại đây, trinh nữ Maria đã hạ sinh Đức Chúa Jesus). Đến ngày nay, vào dịp Giáng sinh, người ta tặng cho nhau món quà hay bó hoa tươi và lời chúc tốt đẹp đến người thân hay bạn bè.

5- Thiệp Giáng sinh: Năm 1843, thương gia người Anh là Henry Cole, nhờ họa sĩ Horsley ở London thiết kế một tấm thiệp thật đẹp, để tặng bạn bè. Noel năm đó họa sĩ Horsley trình làng tấm thiệp Giáng sinh đầu tiên, được nhiều người trên thế giới nhiệt liệt tán thưởng, nên in tiếp 1000 tấm thiệp nữa. Từ đấy, thiệp Giáng sinh tại Anh phát triển, rồi du nhập qua Đức và khoảng 30 năm sau, nhân dân Hoa Kỳ cũng hưởng ứng trong việc gởi thiệp Giáng sinh đến người thân hay bạn bè.

6- Cây Noel: Noel là tiếng Pháp, còn tiếng Anh-Mỹ thì gọi là Christmas tree. Vào thế kỷ thứ VII, vị tu sĩ người Đức có tên thánh là Bonifacedax, cùng với một số tu sĩ vùng Geismar, chặt một cây sồi thật to, khi cây sồi ngã, tất cả cây cối xung quanh bị đè bẹp, riêng cây thông không bị hề hấn gì, họ gọi cây ấy là “cây Chúa hài đồng Jesus”, từ đó người ta dùng cây thông nhỏ chưng bày trong dịp Giáng sinh.

Cây Noel được gọi lần đầu tiên tại Alsace vào năm 1521. Đến năm 1560, tín đồ Tin Lành cũng chọn cây thông trưng bày vào ngày Giáng sinh. Từ thế kỷ XIX cho đến nay, cây Noel được trưng bày vào ngày Giáng sinh.

7- Vòng lá mùa vọng: Vòng lá mùa vọng là vòng tròn kết bằng cành lá xanh, thường được đặt trên bàn hay treo lên cao để mọi người trông thấy, trong 4 tuần Mùa vọng. Vòng lá có hình tròn biểu tượng vĩnh hằng và tình thương vô tận của Thiên Chúa. Màu xanh là biểu tượng rằng Đấng cứu thế sẽ cứu con người. Trong 4 cây nến: 3 cây màu tím là màu của mùa vọng, 1 cây màu hồng là màu của Chúa Nhật thứ Ba mùa Vọng, hay còn gọi là Chúa Nhật Vui mừng (Gaudete Sunday); hoặc 4 cây nến đỏ; cứ mỗi tuần mùa Vọng đốt 1 cây nến.

Nguyễn Lộc Yên

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.