Hôm nay,  

Con Cá Bống Dưới Giếng Thần

30/04/201300:00:00(Xem: 5396)


Phúc Nguyễn
Bố mẹ tôi có 5 người con, 3 gái 2 trai . Tôi là con trai út trong gia đình.
Quanh tôi chỉ có 1 anh và 2 chị còn lại. Bố mẹ tôi không bao giờ nói cho tôi biết về người chị cả của tôi. Những gì tôi biết về chị cả đều qua các chị và anh còn lại.
Chuyện người chị cả này hoàn toàn gần như một chuyện cổ tích bởi chuyện kể chị đã lấy chồng và theo chồng đi xa trước khi tôi sinh ra đời vào năm 1945.
Bao giờ và ở đâu? Tôi cũng chẳng biết
Có nghĩa là ngày tôi mở mắt chào đời cho tới 30 tháng 4 năm 1975, 30 năm đã trôi qua trong đời, tôi vẫn chỉ biết tôi có một người chị cả, đi lấy chồng ở xa và chẳng bao giờ biết mặt, ngay một bức hình tôi muốn được xem, cũng không có.
Vậy thì tôi có gì để kể lể về người chị này trong 30 năm qua đi này.
Không có gì.
Nhớ thương? Không. Đi hỏi thăm? Không. Đi tìm kiếm? Không. Thắc mắc? Không. Buồn? Cũng không luôn.
Chuyện cổ tích luôn luôn là một giấc mơ thật đẹp của tuổi thơ.
Khi trẻ thơ, tôi vẫn mang trong trái tim hai chữ Chị Cả với tất cả yêu thương mong đợi từ khi biết ngoài 3 anh chị kế tôi, tôi còn có một người chị lớn nữa.
Chỉ có thế thôi.
Câu chuyện có lẽ sẽ chẳng có gì đáng nói ở đây vì toàn là không và không nhưng ngày 30 tháng 4 năm 1975 lại là bắt đầu cho những cái có trong cuộc đời của tôi về người chị cả này.
Năm 1968, tôi ra đại học Văn Khoa Saigon và bị gọi nhập ngũ cùng với tất cả bạn bè cùng khóa ra trường năm đó.
Chúng tôi cùng rủ nhau đi trình diện một ngày ở trung tâm huấn luyện Quang Trung.
Lần lượt qua những phòng khám sức khỏe, ai cũng chỉ được mặc quần sà loỏng và phòng cuối cùng là hội đồng y khoa tuyên bố kết quả giám định sức khỏe.
Bạn bè tôi gần như 100% được tuyên bố “đủ sức khỏe”.
Từng người bước ra ngoài phòng để bắt đầu đặt dấu chân đầu tiên vào đời quân ngũ. Nhìn mọi người với vẻ ưu tư trên khuôn mặt nhưng tôi không thấy và không nghe một tiếng xì xào hay than vãn gì ngoài trừ tiếng nói của các sỹ quan trong hội đồng khi đọc hồ sơ khám sức khỏe của tân binh sắp nhập ngũ.
Trước mặt hội đồng y khoa, tên tôi được gọi, tôi bước ra và đứng yên để chờ nghe quyết định của hội đồng. Họ đọc hồ sơ tôi hơi lâu hơn các hồ sơ khác. Tôi nghĩ có chuyện gì đây nhưng vẫn đứng yên chờ đợi. Cuối cùng, vị sỹ quan ngồi giữa bàn hỏi tên tôi xong tuyên bố tôi được “Miễn dịch vì lý do sức khỏe. Chân trái có tật.”
Hội đồng đóng hồ sơ tôi lại và chuẩn bị đọc hồ sơ kế tiếp thì tôi dơ tay xin nói.
Hội đồng ngạc nhiên và hỏi tôi chuyện gì vì cái quyết định miễn dịch này là một cái tin hoàn toàn vui và thiệt tốt, họ không hiểu tôi có thắc mắc gì.
Tôi nói :
- Tôi xin tình nguyện nhập ngũ.
Tôi nhớ tất cả sỹ quan trên bàn hội đồng y khoa trung tâm 3 nhập ngũ đều cười ùa lên vì có lẽ chả bao giờ họ nghe được câu nói lạ lùng này trong phòng khám sức khỏe. Chắc họ nghĩ tôi đùa hay bị chạm giây chăng?
Không . Tôi không nói đùa và cũng không bị chạm giây. Vị sỹ quan chủ tịch hỏi tôi về lý do tại sao xin tình nguyện.
Tôi trả lời ngay:
- Tôi muốn được nhập ngũ như các bạn bè của tôi.
Câu trả lời của tôi không bao giờ được chuẩn bị và cũng không bao giờ được suy nghĩ trước.
Ở ngay hôm đó và vào lúc đó, thấy bạn bè mình đi lính, mình cũng hăng tiết vịt xin đi. Thế thôi.
Nếu nói tôi xin tình nguyện đi lính vì nào là do lý tưởng hay vì lòng yêu nước hoặc thích đời quân ngũ, chắc tôi hơi loạn ngôn với đời để trở thành anh hùng rơm hay tiểu thuyết hóa đời trai thời chiến do ảnh hưởng của phim ảnh và chuyện tình đời lính lãng mạn ướt át trong văn chương báo chí.
Thật sự ra, một trong những lý do này cũng có ở trong tôi từ lâu, từ khi có cuộc chiến với cộng sản ở miền Nam này nhứt là năm cao điểm của tết Mậu Thân 1968.
Tôi đã từng có những giấc mơ được khoác lên mình bộ áo bay của phi công, đeo trên mặt cặp kiếng Ray Ban và nhếch miệng cười với một tí ria mép như Clark Gable khi đứng trước chiếc khu trục cơ AD6.
Đó là bức hình của một thằng bạn thân sau khi đậu tú tài 1, đi không quân gửi về cho tôi trong thời gian huấn luyện ở bên Mỹ. Tấm ảnh nó đứng trên cánh máy bay AD6 với một điếu thuốc trên môi vẫn luôn luôn là nỗi thèm thuồng của tôi ở tuổi trai trẻ buổi chinh chiến này.
Thế nhưng vị sỹ quan ngồi giữa hội đồng cười hề hề hỏi tôi:
- Anh có chạy được không?
Tôi đáp:
- Dạ chạy được.
Viên sỹ quan này nói tiếp:
- Tôi muốn nói chạy dã chiến vài cây số với ba lô súng đạn trên vai.
Tôi ngập ngừng đắn đo, nói nhỏ:
- Tôi không biết.
Vị sỹ quan này bèn lên cao giọng với nụ cười ruồi trên môi và phán ngay một câu:
- Thôi, về đi cha nội.
Câu nói tếu làm mọi người trong phòng cười ồ lên.Tôi chết đứng đi trong vài giây đồng hồ.
Thế là chấm dứt một giấc mộng không bình thường của tôi.
Nếu giấc mộng này trở thành sự thực hôm đó thì có lẽ tôi không có câu chuyện về người chị cả của tôi để kể ra đây với đời.
Sự thực này hoặc sẽ đưa tôi về nằm nghỉ vĩnh viến ở nghĩa trang quân đội Biên Hòa hay sẽ còng lưng cuốc xẻng ở một trại tù lao động học tập cải tạo nào đó, nơi đèo heo hút gió hay tận vùng núi hẻo lánh xa xôi miệt biên giới Tầu, nơi cuộc đời sẽ luẩn quẩn chạy quanh với nhớ mong chết chóc, bệnh hoạn, sợ hãi, đói khát, canh gác và trả thù rình rập suốt 24 tiềng đồng hồ mỗi ngày và hoặc tôi, cuối cùng, có thể đang ngày đêm cầy bừa trên xứ lạ quê người xa xôi đâu đó trên quả địa cầu.
Những hay và hoặc này sẽ là đoạn kết về câu chuyện cổ tích của tôi nhưng ngày 30 tháng 4 năm 1075 đã đưa tôi về một câu chuyện cổ tích mới, câu chuyện không có cá bống dưới giếng thần mà mẹ tôi hay kể cho tôi nghe khi còn bé và nay, chỉ có bo bo, khoai mì và nón cối bên cạnh.
Tôi vẫn biết gia đình tôi có ít tin tức về chị cả từ sau khi lấy chồng đi xa khoảng năm 1942, 43 dù không gặp nhau. Một ngày nào đó sau 30 tháng 4 năm 1975, tôi nghe phong phanh là chị sẽ từ ngoài Bắc vào Saigon hội ngộ với gia đình.
Tin đến với tôi với chút ít xôn xao nôn nóng trong lòng hơn tôi tưởng.
Ngày xưa chuyện cổ tích của tôi có cá bống và giếng thần, chị cả tôi là một tưởng tượng ôi thật nên thơ. Tôi thầm mơ một ngày nào đó, bà tiên cho tôi gặp chị, chắc là mừng đến rơi nước mắt mới được.

Chuyện cổ hôm nay chỉ còn có bo bo, khoai mì và nón cối bên cạnh.
Mỗi đêm, tôi không có một giấc ngủ yên dài với mộng đẹp bởi họp hành, tổ dân phố, kiểm tra với tên công an khu vực đi rảo thường xuyên khắp xóm giềng. Ban ngày, tôi không có thời gian để mơ mộng khi nhìn quanh chỉ thấy nỗi lo âu, sợ hãi và mệt mỏi của bố mẹ, anh chị, hàng xóm và mọi người.
Chiếc loa phát thanh đầu xóm là tiếng rống của một con quái vật máy ra rả nghe đến phát điên lên mỗi sáng sớm, trưa nóng hay chiều về.
Bảo tôi hãy chuẩn bị những giọt nước mắt cho một cuộc hội ngộ tương phùng lần đầu tiên trong đời được gặp người chị cả với bo bo, nón cối và tiếng quái vật như vậy, tôi nghĩ có lẽ mình phải tập dợt dữ lắm, nhứt là để đón chờ một người chị trong giấc mờ trở về với một ông chồng là… một đảng viên Cộng Sản.
Từ ngày nghe tin phong phanh đó, tôi vẫn đi làm bình thường ở thư viện Quốc Gia đường Gia Long, Saigon. Sự phong phanh mỏng đến độ nó không có chỗ đứng được trong trái tim của tôi.
Hằng ngày, tôi phải lo dọn dẹp thư viện, sắp xếp, chọn lựa sách báo để làm danh sách báo cáo cho những người từ rừng mới về muốn biết Thư Viện ở đây chứa cái gì?
Công việc nhàm chán nhưng vẫn phải làm. Chiều đến là chỉ mong hết giờ để về nhà không phải là để nghỉ mệt mà chỉ muốn ra khỏi cái nơi mình không ưa này, tránh khỏi phải nhìn những bộ quần áo mầu cứt ngựa, nón cối, dép râu và súng lục lủng lẳng bên hông với giọng nói miền Bắc quê mùa chát chúa lỗ tai tôi chưa bao giờ được nghe.
Nhìn và nghe thấy những cái không ưa trong 8 tiếng đồng hồ mỗi ngày quả thật là quá nhiều cho một ngày của tôi.
Một buổi chiều nào đó, tan sở về, chán chường, tôi đạp xe lang thang khắp phố, chả biết đi đâu và rồi định ghé lại nhà một người bạn để giết thì giờ.
Tới nơi, nó không có nhà. Tôi đành lên xe cuốc về nhà.
Đến cửa nhà, bỗng nghe nhiều tiếng lao xao trong nhà, tôi hơi ngạc nhiên và chẳng hiểu chuyện gì xẩy ra?
Có vài “giọng nói miền Bắc quê mùa chát chúa lỗ tai” trong nhà tôi vọng ra. Cái âm thanh này không phải là tin tốt cho tôi vì tôi đã phải chịu khổ để nghe nó mỗi ngày 8 tiếng từ mấy tháng trời nay cộng với khẩu súng lục lủng lẳng bên hông.
Làm sao bây giờ nó lại ở trong nhà tôi giờ này?
Tôi hồi hộp đẩy xe bước vào. Trong nhà có khá nhiều người hơn thường ngày, tôi nhìn thấy bố mẹ tôi, hai chị lớn và anh trai của tôi và vài người lạ.
Tất cả tiếng nói và tiếng động đều ngưng lại tức thì. Mọi người trong nhà quay ra nhìn tôi, người mới bước vào dựng xe.
Trong vài người lạ đó, một người đàn bà hơi đen đủi, búi tó, dáng thâm thấp, tuổi chừng các chị tôi, mặc quần dài đen và áo bà ba nâu nhạt, bước ra dang hai tay đón tôi.
Tôi nghe một tiếng nói nhỏ của bà đó, một “giọng nói miền Bắc quê mùa chát chúa lỗ tai.”
- Em.
Tôi hơi sững sờ và chưa kịp trả lời một tiếng nào thì cả thân tôi đã nằm trong vòng tay của bà, người vừa gọi tôi bằng em.
Tôi vẫn hai tay buông xuôi trong vòng tay của bà, người đứng thẳng, không nói được tiếng nào và trong chớp nhoáng, tôi biết bà đó là ai.
Người chị cả của tôi.
Tôi lặng im, không một cử động và không một tiếng trả lời. Tôi biết thân tôi đang rung động với hai cánh tay của “chị tôi”, bên vai tôi, có một khuôn mặt đang nức nở khóc và áo tôi bắt đầu ướt một bên.
Chữ đầu tiên, tôi mở miệng nói nhỏ:
- Chị cả.
Tôi nghe tiếng trả lời với nước mắt:
- Ừ ! chị đây, em là Nam phải không?
Tôi nghe nhiều tiếng nói lao xao trong nhà nổi dậy ;
- Ừ! Nó đấy, Nam đấy.
Tôi bắt đầu định đưa hai tay lên cầm hai tay chị nhưng đôi mắt của tôi không nhìn chị vì đằng sau chị, có một vóc dáng của một người đàn ông với chiếc nón cối trên đầu.
Nước mắt tôi chưa kịp chảy ra thì sự xúc động của tôi bị tắc lại tức thì bởi cái nón cối.
Tôi nhìn người đàn ông này, ông ta trông khá già, người tầm thước và xương xẩu, da vẻ hơi nhăn nheo, không đến nỗi đen, không mặc quần áo bộ đội mầu cứt ngựa nhưng có sặc nét …”Cộng Sản” trên đó.
Cái nét tôi cảm thấy đó không biết từ đâu ra, tại bởi cái nón cối? hay tại bởi khuôn mặt? hoặc do tôi bị dị ứng?
Cái sặc nét Cộng Sản đó đang đứng trước mặt mình, tôi nghe tiếng chị nói:
- Anh ơi! Nam đấy.
Tôi vẫn đứng yên. Không gật đầu chào và cũng không một cử chỉ vồn vã hay thân mật hoặc một lời nói xã giao ngoại trừ một nụ cười nhỏ trên môi để trả lời cho chữ “ Nam đấy!”
Nó lặng lẽ như những ngày tháng kế tiếp lặng lẽ trôi qua.
Nhà tôi cũng có thêm tiếng cười đùa và tiếng nói lao xao. Tôi nghe tiếng chị cả tôi và tiếng các chị kế trò chuyện hỏi han và kể chuyện gần xa, tôi không hiểu sao mình vẫn đứng ngoài câu chuyện của gia đình.
Tôi không lại gần, không hỏi thăm và cũng cảm thấy không biết bắt đầu bằng như thế nào bởi giữa tôi và người chị cả, tôi không có một hình ảnh nào, một kỷ niệm nào để khơi chuyện với chị và làm một nhịp cầu bắt đong đưa qua lại giữa hai chị em cho những ngày quá khứ.
Chị đã lấy chồng và theo chồng trước khi tôi được sinh ra đời.
Tiếng cười đùa và lao xao trong gia đình không kéo dài được lâu sau một vài ngày đầu.
Tôi bắt đầu cảm thấy có chuyện hơi lạ lùng xẩy ra.
Cho đến một buổi tối cuối tuần, nằm trong phòng, đọc sách truyện lăng nhăng, tôi thoáng nghe tiếng đối đáp từ dưới nhà bếp của các anh chị tôi.
Tiếng chị cả:
- Tháng 9 năm 1969, nghe tin bác Hồ mất, chị và mọi người ngoài đó khóc quá trời.
Tôi nghe tiếng chị ba tôi tiếp thêm:
- Trong này, em và mọi người cũng khóc.
Chị cả tôi chắc cảm động bèn hỏi dồn:
- Thế hả, thật sao?
Tiếng chị ba tôi nói ngay:
- Ừ thật. Khóc vì mừng bác chết. Sắp hết chiến tranh.
Và cứ như thế, sau 30 tháng 4 năm 1975, chiến tranh Nam Bắc đã kết thúc ờ ngoài đời nhưng cuộc chiến ấy lại mới bắt đầu xẩy ra trong gia đình tôi trên mọi chiến tuyến.
Tôi không rõ anh chị cả đã ở lại đây bao lâu và cũng không nhớ ngày anh chị chia tay với gia đình trở về miền Bắc hay có một lời từ giã giữa tôi và anh chị được trao đổi.
Con cá bống dưới giếng thần nay đã biến thành người trên trần gian và chả bao giờ quay lại giếng xưa nữa.
Chuyện cổ tích luôn luôn là một giấc mơ thật đẹp của tuổi thơ.
Phúc Nguyễn
Kỷ niệm 38 năm mất nước – 30 tháng 4 năm 2013

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.