Hôm nay,  

Con Cá Bống Dưới Giếng Thần

30/04/201300:00:00(Xem: 5397)


Phúc Nguyễn
Bố mẹ tôi có 5 người con, 3 gái 2 trai . Tôi là con trai út trong gia đình.
Quanh tôi chỉ có 1 anh và 2 chị còn lại. Bố mẹ tôi không bao giờ nói cho tôi biết về người chị cả của tôi. Những gì tôi biết về chị cả đều qua các chị và anh còn lại.
Chuyện người chị cả này hoàn toàn gần như một chuyện cổ tích bởi chuyện kể chị đã lấy chồng và theo chồng đi xa trước khi tôi sinh ra đời vào năm 1945.
Bao giờ và ở đâu? Tôi cũng chẳng biết
Có nghĩa là ngày tôi mở mắt chào đời cho tới 30 tháng 4 năm 1975, 30 năm đã trôi qua trong đời, tôi vẫn chỉ biết tôi có một người chị cả, đi lấy chồng ở xa và chẳng bao giờ biết mặt, ngay một bức hình tôi muốn được xem, cũng không có.
Vậy thì tôi có gì để kể lể về người chị này trong 30 năm qua đi này.
Không có gì.
Nhớ thương? Không. Đi hỏi thăm? Không. Đi tìm kiếm? Không. Thắc mắc? Không. Buồn? Cũng không luôn.
Chuyện cổ tích luôn luôn là một giấc mơ thật đẹp của tuổi thơ.
Khi trẻ thơ, tôi vẫn mang trong trái tim hai chữ Chị Cả với tất cả yêu thương mong đợi từ khi biết ngoài 3 anh chị kế tôi, tôi còn có một người chị lớn nữa.
Chỉ có thế thôi.
Câu chuyện có lẽ sẽ chẳng có gì đáng nói ở đây vì toàn là không và không nhưng ngày 30 tháng 4 năm 1975 lại là bắt đầu cho những cái có trong cuộc đời của tôi về người chị cả này.
Năm 1968, tôi ra đại học Văn Khoa Saigon và bị gọi nhập ngũ cùng với tất cả bạn bè cùng khóa ra trường năm đó.
Chúng tôi cùng rủ nhau đi trình diện một ngày ở trung tâm huấn luyện Quang Trung.
Lần lượt qua những phòng khám sức khỏe, ai cũng chỉ được mặc quần sà loỏng và phòng cuối cùng là hội đồng y khoa tuyên bố kết quả giám định sức khỏe.
Bạn bè tôi gần như 100% được tuyên bố “đủ sức khỏe”.
Từng người bước ra ngoài phòng để bắt đầu đặt dấu chân đầu tiên vào đời quân ngũ. Nhìn mọi người với vẻ ưu tư trên khuôn mặt nhưng tôi không thấy và không nghe một tiếng xì xào hay than vãn gì ngoài trừ tiếng nói của các sỹ quan trong hội đồng khi đọc hồ sơ khám sức khỏe của tân binh sắp nhập ngũ.
Trước mặt hội đồng y khoa, tên tôi được gọi, tôi bước ra và đứng yên để chờ nghe quyết định của hội đồng. Họ đọc hồ sơ tôi hơi lâu hơn các hồ sơ khác. Tôi nghĩ có chuyện gì đây nhưng vẫn đứng yên chờ đợi. Cuối cùng, vị sỹ quan ngồi giữa bàn hỏi tên tôi xong tuyên bố tôi được “Miễn dịch vì lý do sức khỏe. Chân trái có tật.”
Hội đồng đóng hồ sơ tôi lại và chuẩn bị đọc hồ sơ kế tiếp thì tôi dơ tay xin nói.
Hội đồng ngạc nhiên và hỏi tôi chuyện gì vì cái quyết định miễn dịch này là một cái tin hoàn toàn vui và thiệt tốt, họ không hiểu tôi có thắc mắc gì.
Tôi nói :
- Tôi xin tình nguyện nhập ngũ.
Tôi nhớ tất cả sỹ quan trên bàn hội đồng y khoa trung tâm 3 nhập ngũ đều cười ùa lên vì có lẽ chả bao giờ họ nghe được câu nói lạ lùng này trong phòng khám sức khỏe. Chắc họ nghĩ tôi đùa hay bị chạm giây chăng?
Không . Tôi không nói đùa và cũng không bị chạm giây. Vị sỹ quan chủ tịch hỏi tôi về lý do tại sao xin tình nguyện.
Tôi trả lời ngay:
- Tôi muốn được nhập ngũ như các bạn bè của tôi.
Câu trả lời của tôi không bao giờ được chuẩn bị và cũng không bao giờ được suy nghĩ trước.
Ở ngay hôm đó và vào lúc đó, thấy bạn bè mình đi lính, mình cũng hăng tiết vịt xin đi. Thế thôi.
Nếu nói tôi xin tình nguyện đi lính vì nào là do lý tưởng hay vì lòng yêu nước hoặc thích đời quân ngũ, chắc tôi hơi loạn ngôn với đời để trở thành anh hùng rơm hay tiểu thuyết hóa đời trai thời chiến do ảnh hưởng của phim ảnh và chuyện tình đời lính lãng mạn ướt át trong văn chương báo chí.
Thật sự ra, một trong những lý do này cũng có ở trong tôi từ lâu, từ khi có cuộc chiến với cộng sản ở miền Nam này nhứt là năm cao điểm của tết Mậu Thân 1968.
Tôi đã từng có những giấc mơ được khoác lên mình bộ áo bay của phi công, đeo trên mặt cặp kiếng Ray Ban và nhếch miệng cười với một tí ria mép như Clark Gable khi đứng trước chiếc khu trục cơ AD6.
Đó là bức hình của một thằng bạn thân sau khi đậu tú tài 1, đi không quân gửi về cho tôi trong thời gian huấn luyện ở bên Mỹ. Tấm ảnh nó đứng trên cánh máy bay AD6 với một điếu thuốc trên môi vẫn luôn luôn là nỗi thèm thuồng của tôi ở tuổi trai trẻ buổi chinh chiến này.
Thế nhưng vị sỹ quan ngồi giữa hội đồng cười hề hề hỏi tôi:
- Anh có chạy được không?
Tôi đáp:
- Dạ chạy được.
Viên sỹ quan này nói tiếp:
- Tôi muốn nói chạy dã chiến vài cây số với ba lô súng đạn trên vai.
Tôi ngập ngừng đắn đo, nói nhỏ:
- Tôi không biết.
Vị sỹ quan này bèn lên cao giọng với nụ cười ruồi trên môi và phán ngay một câu:
- Thôi, về đi cha nội.
Câu nói tếu làm mọi người trong phòng cười ồ lên.Tôi chết đứng đi trong vài giây đồng hồ.
Thế là chấm dứt một giấc mộng không bình thường của tôi.
Nếu giấc mộng này trở thành sự thực hôm đó thì có lẽ tôi không có câu chuyện về người chị cả của tôi để kể ra đây với đời.
Sự thực này hoặc sẽ đưa tôi về nằm nghỉ vĩnh viến ở nghĩa trang quân đội Biên Hòa hay sẽ còng lưng cuốc xẻng ở một trại tù lao động học tập cải tạo nào đó, nơi đèo heo hút gió hay tận vùng núi hẻo lánh xa xôi miệt biên giới Tầu, nơi cuộc đời sẽ luẩn quẩn chạy quanh với nhớ mong chết chóc, bệnh hoạn, sợ hãi, đói khát, canh gác và trả thù rình rập suốt 24 tiềng đồng hồ mỗi ngày và hoặc tôi, cuối cùng, có thể đang ngày đêm cầy bừa trên xứ lạ quê người xa xôi đâu đó trên quả địa cầu.
Những hay và hoặc này sẽ là đoạn kết về câu chuyện cổ tích của tôi nhưng ngày 30 tháng 4 năm 1075 đã đưa tôi về một câu chuyện cổ tích mới, câu chuyện không có cá bống dưới giếng thần mà mẹ tôi hay kể cho tôi nghe khi còn bé và nay, chỉ có bo bo, khoai mì và nón cối bên cạnh.
Tôi vẫn biết gia đình tôi có ít tin tức về chị cả từ sau khi lấy chồng đi xa khoảng năm 1942, 43 dù không gặp nhau. Một ngày nào đó sau 30 tháng 4 năm 1975, tôi nghe phong phanh là chị sẽ từ ngoài Bắc vào Saigon hội ngộ với gia đình.
Tin đến với tôi với chút ít xôn xao nôn nóng trong lòng hơn tôi tưởng.
Ngày xưa chuyện cổ tích của tôi có cá bống và giếng thần, chị cả tôi là một tưởng tượng ôi thật nên thơ. Tôi thầm mơ một ngày nào đó, bà tiên cho tôi gặp chị, chắc là mừng đến rơi nước mắt mới được.

Chuyện cổ hôm nay chỉ còn có bo bo, khoai mì và nón cối bên cạnh.
Mỗi đêm, tôi không có một giấc ngủ yên dài với mộng đẹp bởi họp hành, tổ dân phố, kiểm tra với tên công an khu vực đi rảo thường xuyên khắp xóm giềng. Ban ngày, tôi không có thời gian để mơ mộng khi nhìn quanh chỉ thấy nỗi lo âu, sợ hãi và mệt mỏi của bố mẹ, anh chị, hàng xóm và mọi người.
Chiếc loa phát thanh đầu xóm là tiếng rống của một con quái vật máy ra rả nghe đến phát điên lên mỗi sáng sớm, trưa nóng hay chiều về.
Bảo tôi hãy chuẩn bị những giọt nước mắt cho một cuộc hội ngộ tương phùng lần đầu tiên trong đời được gặp người chị cả với bo bo, nón cối và tiếng quái vật như vậy, tôi nghĩ có lẽ mình phải tập dợt dữ lắm, nhứt là để đón chờ một người chị trong giấc mờ trở về với một ông chồng là… một đảng viên Cộng Sản.
Từ ngày nghe tin phong phanh đó, tôi vẫn đi làm bình thường ở thư viện Quốc Gia đường Gia Long, Saigon. Sự phong phanh mỏng đến độ nó không có chỗ đứng được trong trái tim của tôi.
Hằng ngày, tôi phải lo dọn dẹp thư viện, sắp xếp, chọn lựa sách báo để làm danh sách báo cáo cho những người từ rừng mới về muốn biết Thư Viện ở đây chứa cái gì?
Công việc nhàm chán nhưng vẫn phải làm. Chiều đến là chỉ mong hết giờ để về nhà không phải là để nghỉ mệt mà chỉ muốn ra khỏi cái nơi mình không ưa này, tránh khỏi phải nhìn những bộ quần áo mầu cứt ngựa, nón cối, dép râu và súng lục lủng lẳng bên hông với giọng nói miền Bắc quê mùa chát chúa lỗ tai tôi chưa bao giờ được nghe.
Nhìn và nghe thấy những cái không ưa trong 8 tiếng đồng hồ mỗi ngày quả thật là quá nhiều cho một ngày của tôi.
Một buổi chiều nào đó, tan sở về, chán chường, tôi đạp xe lang thang khắp phố, chả biết đi đâu và rồi định ghé lại nhà một người bạn để giết thì giờ.
Tới nơi, nó không có nhà. Tôi đành lên xe cuốc về nhà.
Đến cửa nhà, bỗng nghe nhiều tiếng lao xao trong nhà, tôi hơi ngạc nhiên và chẳng hiểu chuyện gì xẩy ra?
Có vài “giọng nói miền Bắc quê mùa chát chúa lỗ tai” trong nhà tôi vọng ra. Cái âm thanh này không phải là tin tốt cho tôi vì tôi đã phải chịu khổ để nghe nó mỗi ngày 8 tiếng từ mấy tháng trời nay cộng với khẩu súng lục lủng lẳng bên hông.
Làm sao bây giờ nó lại ở trong nhà tôi giờ này?
Tôi hồi hộp đẩy xe bước vào. Trong nhà có khá nhiều người hơn thường ngày, tôi nhìn thấy bố mẹ tôi, hai chị lớn và anh trai của tôi và vài người lạ.
Tất cả tiếng nói và tiếng động đều ngưng lại tức thì. Mọi người trong nhà quay ra nhìn tôi, người mới bước vào dựng xe.
Trong vài người lạ đó, một người đàn bà hơi đen đủi, búi tó, dáng thâm thấp, tuổi chừng các chị tôi, mặc quần dài đen và áo bà ba nâu nhạt, bước ra dang hai tay đón tôi.
Tôi nghe một tiếng nói nhỏ của bà đó, một “giọng nói miền Bắc quê mùa chát chúa lỗ tai.”
- Em.
Tôi hơi sững sờ và chưa kịp trả lời một tiếng nào thì cả thân tôi đã nằm trong vòng tay của bà, người vừa gọi tôi bằng em.
Tôi vẫn hai tay buông xuôi trong vòng tay của bà, người đứng thẳng, không nói được tiếng nào và trong chớp nhoáng, tôi biết bà đó là ai.
Người chị cả của tôi.
Tôi lặng im, không một cử động và không một tiếng trả lời. Tôi biết thân tôi đang rung động với hai cánh tay của “chị tôi”, bên vai tôi, có một khuôn mặt đang nức nở khóc và áo tôi bắt đầu ướt một bên.
Chữ đầu tiên, tôi mở miệng nói nhỏ:
- Chị cả.
Tôi nghe tiếng trả lời với nước mắt:
- Ừ ! chị đây, em là Nam phải không?
Tôi nghe nhiều tiếng nói lao xao trong nhà nổi dậy ;
- Ừ! Nó đấy, Nam đấy.
Tôi bắt đầu định đưa hai tay lên cầm hai tay chị nhưng đôi mắt của tôi không nhìn chị vì đằng sau chị, có một vóc dáng của một người đàn ông với chiếc nón cối trên đầu.
Nước mắt tôi chưa kịp chảy ra thì sự xúc động của tôi bị tắc lại tức thì bởi cái nón cối.
Tôi nhìn người đàn ông này, ông ta trông khá già, người tầm thước và xương xẩu, da vẻ hơi nhăn nheo, không đến nỗi đen, không mặc quần áo bộ đội mầu cứt ngựa nhưng có sặc nét …”Cộng Sản” trên đó.
Cái nét tôi cảm thấy đó không biết từ đâu ra, tại bởi cái nón cối? hay tại bởi khuôn mặt? hoặc do tôi bị dị ứng?
Cái sặc nét Cộng Sản đó đang đứng trước mặt mình, tôi nghe tiếng chị nói:
- Anh ơi! Nam đấy.
Tôi vẫn đứng yên. Không gật đầu chào và cũng không một cử chỉ vồn vã hay thân mật hoặc một lời nói xã giao ngoại trừ một nụ cười nhỏ trên môi để trả lời cho chữ “ Nam đấy!”
Nó lặng lẽ như những ngày tháng kế tiếp lặng lẽ trôi qua.
Nhà tôi cũng có thêm tiếng cười đùa và tiếng nói lao xao. Tôi nghe tiếng chị cả tôi và tiếng các chị kế trò chuyện hỏi han và kể chuyện gần xa, tôi không hiểu sao mình vẫn đứng ngoài câu chuyện của gia đình.
Tôi không lại gần, không hỏi thăm và cũng cảm thấy không biết bắt đầu bằng như thế nào bởi giữa tôi và người chị cả, tôi không có một hình ảnh nào, một kỷ niệm nào để khơi chuyện với chị và làm một nhịp cầu bắt đong đưa qua lại giữa hai chị em cho những ngày quá khứ.
Chị đã lấy chồng và theo chồng trước khi tôi được sinh ra đời.
Tiếng cười đùa và lao xao trong gia đình không kéo dài được lâu sau một vài ngày đầu.
Tôi bắt đầu cảm thấy có chuyện hơi lạ lùng xẩy ra.
Cho đến một buổi tối cuối tuần, nằm trong phòng, đọc sách truyện lăng nhăng, tôi thoáng nghe tiếng đối đáp từ dưới nhà bếp của các anh chị tôi.
Tiếng chị cả:
- Tháng 9 năm 1969, nghe tin bác Hồ mất, chị và mọi người ngoài đó khóc quá trời.
Tôi nghe tiếng chị ba tôi tiếp thêm:
- Trong này, em và mọi người cũng khóc.
Chị cả tôi chắc cảm động bèn hỏi dồn:
- Thế hả, thật sao?
Tiếng chị ba tôi nói ngay:
- Ừ thật. Khóc vì mừng bác chết. Sắp hết chiến tranh.
Và cứ như thế, sau 30 tháng 4 năm 1975, chiến tranh Nam Bắc đã kết thúc ờ ngoài đời nhưng cuộc chiến ấy lại mới bắt đầu xẩy ra trong gia đình tôi trên mọi chiến tuyến.
Tôi không rõ anh chị cả đã ở lại đây bao lâu và cũng không nhớ ngày anh chị chia tay với gia đình trở về miền Bắc hay có một lời từ giã giữa tôi và anh chị được trao đổi.
Con cá bống dưới giếng thần nay đã biến thành người trên trần gian và chả bao giờ quay lại giếng xưa nữa.
Chuyện cổ tích luôn luôn là một giấc mơ thật đẹp của tuổi thơ.
Phúc Nguyễn
Kỷ niệm 38 năm mất nước – 30 tháng 4 năm 2013

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.