Hôm nay,  

Ôi Đàn Bà!!!

26/05/201300:00:00(Xem: 12203)
“…Là chỉ mình lẽ phải, các ông thua …
Là hỏi gì không nói, gọi không thưa…
Là ngoài trời vừa nắng lại vừa mưa
Là cãi cọ, các ông vẫn là thua thiệt
Là vắng nhà một bữa đã nhớ mong…
Tạ ơn trời đàn bà vẫn còn đó...
Chỉ đàn ông? Ôi chi bằng tận thế!” (*)

Mấy vần thơ dân gian giản dị trên đây đã giúp nhận diện khá rõ nét các bà với những đặc tánh hoàn toàn phụ nữ bất biến với thời và không gian. Đời là “vô thường” nhưng những đặt tánh này thì không bao giờ là “vô thường” hết cả.

Trước giờ, khi đề cặp tới các bà, người ta chỉ nói các mặt tiêu cực về địa vị xã hội của các bà theo đó các bà luôn luôn là nạn nhơn của những vụ bạo hành trong gia đình và cả ngoài xã hội. Tình trạng bất bình đẳng về nghề nghiệp, lương bổng, và về nhiều quyền lợi khác như quyền trước công lý, quyền được chăm sóc sức khỏe, quyền được đi học, …làm cho đời sống người phụ nữ vì đó bị nhiều khó khăn hơn đối với các ông tuy luật pháp đã ban hành bảo đảm sự bình đẳng cho cả hai giới, xử lý nghiêm khắc những vi phạm.

Nói về các bà chỉ nói về địa vị xã hội thôi cũng là điều đã phải nói nhiều nhưng vẫn chưa xong, chưa kết thúc. Đã vậy, ở các bà còn những điều ít ai để ý tới vì nó không thuộc về “nữ quyền” mà đó là những chuyện khá đặt biệt về các bà, của các bà, và chỉ có ở các bà mà thôi!

Cỏ May xin sơ lược vài chuyện lượm lặt được đây đó, qua báo chí, sách vở nói riêng về các bà.

Trưóc nhứt, xin nói về ưu điển chói lọi của các bà. Dân Tây của Cỏ May đã phải ngã nón bày tỏ lòng ngưởng mộ và thán phục Bà Julia Gillard, Thủ tướng Liên bang Úc châu, đã hơn một lần lớn tiếng xác định đường lối chánh trị của Bà "vì nước Úc" là trên hết. Không vì lá phiếu kiểu chánh trị mị dân (la politique politicienne) biết rằng Úc là nước đa văn hóa và đa sắc tộc. Không như nước Pháp hay nhiều nước ở Âu châu. Bà bày tỏ cùng quan điểm với vị tiền nhiệm John Howard về di dân hồi giáo cực đoan:

"Nơi đây là xứ sở của chúng tôi, đất đai của chúng tôi và phong cách sống của chúng tôi.

Và chúng tôi đem lại cho các bạn cơ hội thụ hưởng tất cả các thứ đó. Nhưng nếu các bạn thấy không hài lòng, các bạn thấy quốc kỳ của chúng tôi, đường lối chánh trị, tín ngưởng thiên chúa giáo, hoặc tập quán xã hội văn hóa của chúng tôi làm cho các bạn khó chịu, tôi khuyến khích các bạn nên sử dụng ngay một thứ quyền tự do lớn khác của nước Úc vốn từ lâu dành cho các bạn, đó là " Quyền đi khỏi nơi đây".

Dư luận pháp đã không ngần ngại tán dương Bà Thủ tướng Julia Gillard của Úc xứng đáng là " Nữ Hoàng thế giới " (La Reine du monde).

Chỉ vì "đàn bà"

Câu nói của Bà Simone de Beauvoir, triết gia tài hoa của Pháp và cũng là chiến sĩ nữ quyền của thời đại, thật bất hủ "Người ta sanh ra không phải là đàn bà, mà chính xã hội đã biến người đó trở thành đàn bà ". Thật vậy, khi người phụ nữ trở thành "đàn bà" thì đúng là lúc người phụ nữ phải gánh chịu những bất hạnh dường như đã được xã hội dành sẳn cho họ.

Ở xứ Tàu, cái nôi văn hóa khổng mạnh, công lý của chánh quyền cộng sản ngày nay đã xử phạt một người phụ nữ với tội danh "một người đàn bà mang sắc diện thiếu thẳm mỹ", tức một người "đàn bà mang tội xấu". Báo Huffington Post chạy tít của bản tin đó "Người ta có thề bị kết án vì ngoại hình bất hạnh? Công lý của xứ Tàu đã làm".

Ở Tàu, cậu Jian Feng yêu tha thiết người vợ xinh đẹp của mình. Sau đứa con đầu lòng, nhan sắc của người đàn bà bổng nhiên trở thành tàn tạ. Anh chồng dựng cớ đứa con không giống cha, cho rằng đứa con do ngoại tình, để đòi ly dị. Người vợ thú nhận đã chi 75 000 mỹ kim nhờ giải phẩu thẩm mỹ thay đổi dắc diện hoàn toàn, nay vì sanh đẻ, những khuyết tật xưa tái xuất hiện. Anh chồng nhứt định đưa ra Tòa ly dị và đòi tiền thiệt hại. Tòa xử người vợ đã cố tình che dấu dung nhan xấu để gạt anh chồng, chấp nhận đơn xin ly dị và dạy người vợ phải bồi thường anh chồng 100 000 mỹ kim thiệt hại.

Anh là một nước dân chủ, văn minh, Tòa án vẫn phạt người phụ nữ vì những lý do vớ vẩn không khác gì xứ cộng sản độc tài và lạc hậu như Tàu.

Bà Julie Griffiths bị tòa án nước Anh xử phạt 500 bảng anh về tội "bà lớn tiếng la mắng ông chồng, làm ầm ỉ cả xóm". Thật ra tội danh chánh thức ghi trong bản án là "có hành vi chống lại xã hội".

Theo cáo trạng, Bà Julie Griffiths làm việc 12 giờ mỗi ngày trong nhà máy bị nhiều căng thẳng và bực bội. Khi về tới nhà, thay vì chửi chó mắng mèo, ném chén quăng dỉa cho hạ hỏa, bà cứ nhằm ông chồng mà quần. Bà chửi mắng quá to tiếng khiến lối xóm không ngớt than phiền trong suốt ba năm dài như vậy.

Sau cùng, để giải quyết sự khiếu nại của lối xóm, cảnh sát đem máy đo âm thanh đặt tại hai nhà láng giềng.

Quả thật lời quát mắng chồng của bà đã vượt quá mức cho phép. Sau nhiều lần cảnh cáo, cảnh sát đành phải lập biên bản và đưa bà ra Tòa.

Tòa còn ra lệnh cấm bà la lớn trong 5 năm. Nếu vi phạm sẽ bị phạt 500 bản anh nữa và thêm 5 năm tù ở.

Có người nghĩ không biết ông Tòa phạt Bà Julie Griffiths thật tình vì "có hành vi chống lại xã hội" hay đây chỉ là cơ hội ngàn năm một thuở để phục hận theo kiểu "giận cá chém thớt "?

Phần lớn các ông khi đọc được tin này đếu lấy làm phấn khởi trong lòng, không dám để lộ ra trên sắc diện.

Và cũng từ hôm ấy, Sở di trú Anh đón nhận khá nhiều hồ sơ xin di dân qua nước Anh giống như hồi sau 30/04/75, nhiều gia đình Việt nam tới xin tỵ nạn chánh trị vậy.

Cũng đàn bà

Ai cũng bảo các bà là vô cùng bí hiểm. Mò kim đáy biển còn dể hơn tìm hiểu các bà. Thật ra các bà thường có đời sống tâm lý khá phức tạp. Có những phản ứng khó đo lường hoặc khó giải thích tại sao.

Ở Pháp, hiện có tới 1/5 phụ nữ tìm cách dấu kích thước của thân thể. Không phải dấu với người ngoài, mà dấu sự thật đó với ngay chính mình.

Thật ra, nói cho chính xác, có hơn 1 phụ nữ trên 5, tức 21%, thừa nhận là đã tự nói dối với mình về kích thước (taille/size) quần áo. Các bà đi mua quần áo cho chính mình với kích thước nhỏ hơn rất nhiều (kết quả điều tra của CodesPromotion.fr công bố hôm 31/10/2012).

Nhu cầu có dáng vẻ mảnh khảnh hơn và mang ảo tưởng cho mình có tầm vóc một con người lý tưởng, đó là động cơ thúc đẩy các bà nói dối về kích thước thật của mình. Trong số 21% các bà nói dối, có 63% nhìn nhận nói dối là để tự tạo niềm tin, còn 29% tự tạo cho mình cảm giác dể chịu khi qua " két "trả tiền. Quần thường, quần Jean và sú-cheng là ba món đối tượng cho các bà nói dối.

Trước tâm lý phức tạp này của các bà, thử hỏi Ngọc Hoàng Thượng Đế có giáng lâm liệu Ngài có thể hiểu nổi không?

Một trường hợp khác, người ta kể, ở Pháp có một người đàn ông bị đi tù sáu tháng vì tội đánh vợ. Mãn hạn tù về chưa đầy một tuần lễ, anh ta đã khăn gói đến xin Ban Quản đốc nhà tù cho được tiếp tục ở tù thêm. Hỏi vì sao không ở nhà mà lại muốn vào tù? Anh ta thú thật, tuy ở tù chẳng sung sướng gì nhưng còn hơn ở nhà, vì ở tù không phải nghe vợ phát thanh liên tục bên tai suốt ngày đêm!

Một cuộc điều tra xã hội học ở Trung Quốc trên 1.027 đàn ông ở nhiều vùng dân cư khác nhau với câu hỏi: “Vợ anh có thói xấu gì khó chịu nhất? ”, thì đến 82% trả lời "đó là tật nói nhiều". Hóa ra, ai cũng sợ cái tánh nói nhiều, nói dai của các bà vợ. Nỗi sợ này có nguồn gốc sâu xa từ thuở nhỏ, các cậu bé đã bị mẹ mắng mỏ nhiều quá. Đàn ông lẩn tránh các “lời khuyên” của vợ cũng giống như khi còn nhỏ họ lẩn tránh lời dạy dổ của mẹ. Thực tế “phái mạnh ” luôn luôn là nạn nhơn chung thân của “phái yếu”. Ta thử kiểm điểm lại: lớn lên một chút bị chị mắng. Lớn hơn chút nữa, bị người yêu trách. Lấy vợ, bị vợ cằn nhằn, đay nghiến, quát tháo... Về già cũng chưa yên. Có cụ ông khi tiễn cụ bà về nơi an nghỉ cuối cùng đã tưởng từ nay mình được yên thân cho tuổi già. Nào ngờ, cụ lại phàn nàn: “Con gái tôi bây giờ cũng nói nhiều chẳng kém gì mẹ nó! ”.

Tại sao đàn ông, cả những người từng can trường, coi thường việt cộng mà lại sợ các bà nói và chi có nói mà thôi? Nói đâu có nguy hiểm chết người như việt cộng vũ trang đầy người?

Các ông sợ bà vợ nói nhiều vì nói làm cho người ta khó chịu đến mức có thể ăn không ngon, ngủ không yên, cứ chợp mắt là bị ác mộng giựt dậy, sức khỏe thể chất và tinh thần cùng suy thoái dần, chẳng bao lâu làm sinh bệnh mà... chết.

Kết quả điều tra với các ông chồng, có đến 95% những bản văn của các bà vợ đều giống nhau! Nhiều ông chỉ thoáng nghe câu đầu đã biết toàn bộ nội dung của bản văn tuy chưa tới hồi kết thúc.

Theo các nhà tham vấn gia đình thì trên đời khó có ông chồng nào thoát khỏi bị vợ chê. Đó là một thực tế khá đau buồn.

Chồng bác sĩ thì bị vợ la rầy máy giặt ở nhà hư, sửa không được. Chồng làm nhà báo nói (Phát thanh và Phát hình) bị vợ phàn nàn suốt ngày chỉ nói chuyện không đâu mà không nói đươc một câu có ý nghĩa thực tế làm cho vợ hài lòng...

Tóm lại là anh đã lấy vợ thì không cách gì mà anh có thể tránh khỏi bị vợ chê, không chuyện này thì chuyện khác. Xưa nay phụ nữ ít khi chịu khen chồng. Chỉ có so sánh chồng mình vói người khác để chê trách. Nhưng liệu hồn nếu ông nào vì nổi nóng bảo bà ấy hãy ưng người đó đi, thì không phải bà ấy chỉ dẩy nẩy từ chối mà còn sấn tới cho biết tay bà nữa là khác!

Vậy khi mới quen nhau hay mới yêu nhau, người phụ nữ có như vậy không? Thưa chắc chắn là không ạ. Các bà, các cô hiền và mềm nhũn như con chi chi. Chỉ từ lúc lên ngôi Bà thì nanh vút mới bắt đầu mọc, và dài ra và bén nhọn.

Đã có những nghiên cứu tìm hiểu tại sao phụ nữ nói nhiều? Các nhà khoa học phát hiện nguyên nhân chính là do đàn ông. Vì hiện nay, người phụ nữ đã được luật pháp bảo đảm cho họ quyền bình đẳng với nam giới vậy mà hầu hết việc nhà, các bà vẫn còn phải đảm trách phần lớn như chăm sóc con cái, cơm nước, dọn dẹp nhà cửa,... Thì giờ dành cho các bà nghỉ ngơi vẫn còn quá it so với số thì giờ của các ông được hưởng.

Vậy muốn giúp các bà bớt la hét cho êm cửa, êm nhà, các ông có thể ăn ngon, ngủ yên, sức khỏe sung mãn, không có cách gì khác hơn là các ông đi làm về xông vào lo hết mọi chuyên ở nhà, từ dọn dẹp, cơm nước, chén bác, để các bà không có việc gì phải làm hết.

Chắc chắn trong một lúc nào đó, các bà sẽ năn nỉ các ông xin làm lại việc nhà. Vì sẽ cảm thấy phải chăng mình không còn phải là đàn bà nữa!

(*) Rất tiếc không biết tên tác giả

Nguyễn thị Cỏ May

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày 30 tháng 4 năm 1975, kết thúc chiến tranh Việt Nam và bắt đầu cuộc di cư tị nạn Việt Nam, tôi muốn chia sẻ một vài lời về sự kiên cường của chúng ta là người Mỹ gốc Việt, là người tị nạn và con cháu của người tị nạn. Cảm giác thế nào khi nền tảng của thế giới chúng ta đang sống bị rung chuyển đến mức chúng ta không còn biết mình đang đứng ở đâu hay làm thế nào để tiến về phía trước? Trước năm 2020, trước đại dịch COVID-19, chỉ những người đã chịu những bi kịch lớn mới có thể trả lời câu hỏi này. Bây giờ tất cả chúng ta đang sống với nó.
Nhưng vấn đề không đơn giản như họ nghĩ để buộc người miền Nam phải làm theo vì không còn lựa chọn nào khác. Trong 45 năm qua, ai cũng biết nhà nước CSVN đã đối xử kỳ thị và bất xứng với nhân dân miền Nam trên nhiều lĩnh vực. Từ công ăn việc làm đến bảo vệ sức khỏe, di trú và giáo dục, lý lịch cá nhân của người miền Nam đã bị “phanh thây xẻ thịt” đến 3 đời (Ông bà, cha mẹ, anh em) để moi xét, hạch hỏi và làm tiền.
Trong thực tế, một người tận mắt chứng kiến cảnh chiến xa CS chạy vào dinh Độc Lập ngày 30-4-1975, kể lại đầu đuôi câu chuyện cho người viết bài nầy rất rõ ràng và hoàn toàn khác với sách vở CS đã viết. Đó là giáo sư tiến sĩ Đỗ Văn Thành, hiện nay đang giảng dạy tại đại học Oslo, Na Uy (Norway).
Đến nay, đối với đồng bào ở trong nước và cộng đồng người Việt ở hải ngoại kể từ 30-4-1975, sau 45 năm, những ngày ấy, những năm tháng ấy, không bom đạn trên đầu, nhưng sao trong lòng của mỗi chúng ta cứ lo âu, xao xuyến, sục sôi những chuyển đổi. Không sục sôi chuyển đổi sao được, những tiến bộ Khoa học Công nghệ 4.0, nhất là sự tiến bộ của điện toán, của hệ thống truyền thông, thông tin vượt tất cả mọi kiểm soát, vượt mọi tường lửa, thế giới phô bày trước mắt loài người, trước mặt 90 triệu đồng bào Việt Nam, những cái hay cũng như những cái dỡ của nó một cách phũ phàng.
“Bà X khoảng bốn mươi tuổi, hiện đang sống với chồng và con gái trong một căn nhà do chính họ làm chủ, ở California. Bà nói thông thạo hai thứ tiếng: Anh và Việt. Phục sức giản dị, trông buồn bã và lo lắng, bà X tuy dè dặt nhưng hoàn toàn thành thật khi trả lời mọi câu hỏi được đặt ra. “Bà rời khỏi Việt Nam vào năm 1980, khi còn là một cô bé, cùng với chị và anh rể. Ghe bị cướp ba lần, trong khi lênh đênh trong vịnh Thái Lan. Chị bà X bị hãm hiếp ngay lần thứ nhất. Khi người anh của bà X xông vào cứu vợ, ông bị đập búa vào đầu và xô xuống biển. Lần thứ hai, mọi chuyện diễn tiến cũng gần như lần đầu. Riêng lần cuối, khi bỏ đi, đám hải tặc còn bắt theo theo mấy thiếu nữ trẻ nhất trên thuyền. Chị bà X là một trong những người này.
Tìm được ý nghĩa thực của phương trình từ năm 2012 nhưng không dám công bố vì còn kẹt một bí mật cuối cùng, loay hoay nghiên cứu, tìm tòi hàng năm không giải nổi. Nó nằm trong chữ C² (C bình phương) – bình phương tốc độ ánh sáng. Vật chất chỉ cần chuyển động nhanh bằng (C), tốc độ ánh sáng, là biến thành năng lượng rồi, còn sót cái gì để mà đòi bay nhanh hơn? – C+1 đã là dư. C nhân hai, nhân ba là dư quá lố, vậy mà ở đây còn dư kinh hồn hơn, là c bình phương lận – c nhân với c (186,282 x 186,282) nghĩa là khoảng 34,700,983,524 dặm/ giây!
Sau trận Phước Long 6/1/1975, Hoa Kỳ im lặng, Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát Đình chiến bất lực, cuộc chiến đã đến hồi chấm dứt. Ngày 10/3/1975, Thị xã Ban Mê Thuột bị tấn công thất thủ sau hai ngày chống cự, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, cao nguyên Trung phần lọt vào tay cộng sản. Ngày 8/3/1975, quân Bắc Việt bắt đầu tấn công vào Quảng Trị, Quảng Trị mất, rồi các tỉnh miền Trung lần lượt mất theo.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất hứa.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.