Hôm nay,  

Du Lịch Tại Hoa Kỳ

06/06/201300:00:00(Xem: 10791)
Mở đầu câu chuyện. Trong đời tôi có dịp trải qua một vài chuyến đi khá đặc biệt. Năm 1962 còn là cấp úy đi học về chiến tranh sinh hóa tại Hoa Kỳ lần đầu tiên. Anh ngữ ăn đong, lại đi có một mình, vui mừng và lo lắng suốt khóa học. Năm 1976 cả gia đình di tản qua Mỹ sau 15 tháng đoàn tụ ở Illinois đã thành lập đoàn xe mấy gia đình Tây tiến về Cali. Chúng tôi vẫn còn nhớ đã đi theo con đường liên bang 80 qua Salt Lake city, qua núi Rocky, qua Denver, Colorado rồi tiến vào Bắc Cali theo lối Reno, Nevada. Kỷ niệm 37 năm xưa còn lại những tấm hình. Cũng con đường này năm 1848 cụ Lê Kim, người Việt đầu tiên đi Mỹ đã từ New Orlean ngược con sông Mississippi mà lên St. Louis. Từ thị trấn này bậc tiền bối thời vua Tự Đức đã theo đoàn người đi tìm vàng mà hướng về Cali. Toàn thể câu chuyện này chúng tôi đã tóm lược từ cuốn Con đường Thiên lý của cụ Nguyễn hiến Lê. Bây giờ vào tuần lễ đầu tháng 5-2013 gia đình chúng tôi cùng anh em bằng hữu có dịp đi du hành xe Bus về miền Trung Mỹ. Chuyến đi 7 ngày là một lối du lịch tương đối rẻ tiền, an toàn nhưng cũng khá vất vả. Xin kể lại để các bạn có thêm kinh nghiệm. Du lịch bằng xe Bus. Theo bằng hữu giới thiệu, 3 gia đình thân hữu Việt Nam cùng đi. Chồng lớp tuổi 80, vợ ngoài bẩy chục. Giá vé chuyển vận và phòng hotel 6 đêm cho 1 gia đình không kể tiền ăn tự túc thì 1 người khoảng 600 đồng. So với chuyện đi Tây đi Úc thì đây là giá bình dân.

Du lịch 7 ngày trên xe bus,12 giờ một ngày, nước Mỹ bao la, con đường độc đạo, danh lam thắng cảnh là 40 Restrooms…

Theo lịch trình mỗi ngày phải dậy lúc 5 giờ sáng để ăn uống và vệ sinh. Thông thường 7 giờ là xe lăn bánh đi đến 8 giờ tối mới về hotel. Ngồi trên xe lối 2 hay 3 giờ là đến chỗ thăm viếng hoặc ăn uống, giải lao, vệ sinh. Ăn uống dọc đường hay ăn buổi tối hoàn toàn tự túc.

Xem ra chuyến du lịch quả là một thử thách lớn lao với tuổi già. Bẩy ngày liên tục, mỗi ngày lao động di chuyển 12 giờ. Tương đối may mắn là phái đoàn Việt Nam lên xe trạm đầu tiên, ngồi phía trước và giữ nguyên suốt hành trình không có thay đổi.

Chuyến xe Bus 2013 mới tinh 65 chỗ ngồi kỳ này chở 45 hành khách. Xe có máy lạnh và các tiện nghi như trên phi cơ nhưng hãng xe cố ý thu xếp để hành khách chỉ dùng các nhà vệ sinh dưới đất. Suốt chuyến đi 7 ngày, chúng tôi có dịp thăm viếng trên 40 nhà vệ sinh khác nhau từ Rest Area trong rừng, trên cánh đồng, tại thành phố hay tại các lữ quán. Mỗi ngày đều có dịp ăn các quán Fast Food đủ loại bên xa lộ.

Hành khách.

Hãng xe đò du lịch này đã ra đời 20 năm, chủ cũ là Tàu mới bán lại cho công ty Nhật. Chuyến xe của tôi đi có 2 ông bà người Úc, hai ông cậu cháu bên Luân Đôn Anh quốc. Hai ông bà Mễ đã ở Richmond CA trên 40 năm. Việt Nam San Jose có 3 gia đình. Tại Concord một gia đình. Có gia đình từ VN qua với người con đã tốt nghiệp và làm việc bên Tân tây Lan. Còn lại là các loại Tàu Hồng Kong, lục địa, Đài Loan, Tàu Thái Lan và Tàu San Francisco. Vì đa số khách Trung Hoa nên anh hướng dẫn người Tàu nói tiếng Anh và tiếng Tàu. Cũng gọi là tạm đủ cho du khách biết qua chương trình mỗi ngày và một vài nét về lịch sử cùng tin tức liên quan đến các nơi thăm viếng. Đối với các vị cao niên Việt Nam không biết tiếng Tàu đã đành, lại không thông thạo Anh ngữ thì rất cần con cháu đi theo. Thêm vào đó sức khỏe cũng là vấn đề đáng lưu ý. Việc đối xử với nhau giữa các sắc dân khá lịch sự. Không ồn ào quá đáng, một hiện tượng đáng ngạc nhiên đối với phía người Tàu. Có thể vì nhiều nhóm khác nhau nên còn dè dặt.

Lộ trình. Trạm đầu tiên đón khách tại Milpitas, chúng tôi đã có mặt trước 7 giờ sáng thứ bẩy để lên đường. Rồi tiếp tục đón khách Cupertino, Oakland, San Francisco. Sau đó lên đường thăm thủ đô Cali tại Sacramento. Xe chạy qua tiểu bang Nevada rồi nghỉ tại Elko đêm thứ bảy. Ngày chủ nhật xe chạy qua những vùng bao la bát ngát của Nevada, Utah và Wyoming. Đêm chủ nhật nghỉ tại Casper. Đây toàn là các thị trấn miền quê nước Mỹ. Hai ngày khá vất vả và buồn tẻ vì chỉ đi cho tới mục tiêu. Ngày thứ hai tiến vào S. Dakota để thăm 2 công trình vĩ đại đó là Crazy Horse và Mount Rushmore. Cả 2 đều là công trường tạc tượng trên núi.

Tượng dũng sĩ da đỏ khởi sự trên 20 năm mới xong phần mặt tượng, còn lại chắc phải thêm 20 năm nữa.

Tượng 4 vị tổng thống Hoa Kỳ thì đã hoàn tất và hàng trăm ngàn người thăm viếng mỗi năm. Cuối ngày thứ hai về ngủ tại Gillette. Qua ngày thứ ba và thứ tư đi thăm Yellowstone. Ngày thứ ba ngủ tại West Yellowstone và ngày thứ tư về ngủ tại Salt Lake city.

Ngày thứ năm thăm dinh thống đốc Wyoming và thành phố Muối. Rồi quay về nghỉ tại Reno. Thứ sáu là ngày cuối về lại Bay Area sau khi thăm viếng Lake Tahoe. Như vậy chuyến đi 2 lần qua đất Nevada và du khách có dịp thử thời vận tại thành phố cờ bạc được gọi là thị trấn nhỏ bé nhưng vĩ đại nhất thế giới.
du_lich_xe_bus_1_resized
Hình ảnh chuyến du lịch.
Những chuyện bên lề. Không biết hành khách khác nghĩ sao nhưng chuyến đi này đối với chúng tôi có rất nhiều điều lý thú. Từ lâu tôi muốn đi thăm 2 nơi ở giữa lục địa Bắc Mỹ. 37 năm trước di cư từ miền Đông qua miền Tây chưa có dịp ghé lại. Bây giờ gần 40 năm sau mới có cơ hội thăm viếng cả 2 nơi. Yelowstone là thắng cảnh thiên nhiên vùng núi lửa đã ngủ yên bây giờ còn bốc khói. Những cánh đồng đất bùn thở ì ạch từ lòng đất và đặc biệt có nơi phun nước nóng mỗi giờ và tiếp tục từ ngàn năm trước đến nay. Đây là chuyện của trời đất. Còn Mount Rushmore là chuyện của con người đã vinh danh 4 ông tổng thống bằng cách khắc hình tượng trên núi. Chuyện lạ chỉ xẩy ra tại Hoa Kỳ. Đó là công trình của con người, mà thực sự chỉ bắt đầu từ 1 con người có giấc mơ vĩ đại. Bên cạnh đó lại thêm 1 người điêu khắc gia khác với Carving a Dream đem 3 thế hệ con cháu làm công việc khắc anh dũng sĩ da đỏ Crazy Horse.

Những đề tài này tôi sẽ viết nhiều bài tiếp theo. Tuy nhiên ngay trong 2 ngày đầu rong ruổi giữa trời đất bao la, chúng tôi đã có dịp dừng chân ở những chỗ đầy ý nghĩa lịch sử nhưng thực tế bây giờ không còn di tích. Chẳng còn thấy các trại đổi ngựa của hệ thống đưa thư Pony Express tại khu vực sa mạc Nevada, nơi vốn được tuyên dương trong công tác nối liền đông tây Hoa Kỳ trong 150 năm từ 1860. Chuyến thư đầu tiên từ Sacramento CA đến St. Joseph MI xa cách 1,800 miles đã hoàn tất trong 10 ngày kỷ lục.


Ngày xưa đoạn đường qua Nevada là các trạm khó khăn nhất. Từ bão cát cho đến bão tuyết. Rồi cơn nóng đổ lửa và da đỏ tấn công. Bao nhiêu người đưa thư chết trên mình ngựa. Vào giữa thế kỷ 18 dân giang hồ qua Cali tìm vàng ngóng trông thư tín từ miền Đông gửi qua. Chuyển thư chạy hỏa tốc bằng ngựa Pony Express là những thiên anh hùng ca của thời Hoa Kỳ mở nước. Các thanh niên trẻ tuổi với công việc phóng ngựa như bay ngược suôi với bao vải đầy thư tín được coi như công tác vinh dự anh hùng. Ai là những người chạy cho chuyến thư từ thủ đô đưa tin Cali được chính thức gia nhập Hiệp chủng quốc vào năm 1850. Ai là kỵ mã được vinh dự chạy đoạn cuối từ Nevada về qua Sacramento về đến San Francisco.

Rồi xe bus du lịch đi đến ngã ba di dân được gọi là Emigration Canyon nơi các đoàn lữ hành Tây tiến chia tay đôi ngả. Ai đi suôi về Cali. Ai đi ngược thì theo về Oregon. Trong ngày thứ hai của chuyến đi, du khách có dịp ghé đến 1 nơi duy nhất đó là Independence Rock. Đây không phải là tên tảng đá cô đơn. Tảng đá vĩ đại nằm như con cá voi khổng lồ trên bờ cạn. Khối đá dẹp dài 1900 Feet, rộng 850 Feet và cao 130 Feet.

Đây là một điểm hẹn không thể sai lạc. Cây rừng còn có thể cháy mất dấu. Suối có thể cạn, nhưng tảng đá này không xê dịch từ cả ngàn năm.

Kể từ năm 1830 tảng đá này được gọi là hòn đá độc lập vì các đoàn người ước hẹn phải đến đây trước ngày 4 July mỗi năm.

Từ điểm hẹn này, các đoàn xe Tây tiến bắt đầu lên đường vượt sa mạc Nevada để về miền nắng ấm duyên hải California. Đây cũng là trạm khởi đầu cho Oregon Trail tiến về Thái bình dương theo đường tây bắc. Nếu khởi hành muộn sau 4 July là coi như sẽ không chịu đựng nổi thời tiết khắc nghiệt nên phải lùi lại năm sau. Tuy nhiên ý nghĩa quý giá của chuyến đi là tôi tìm được tin tức và hình ảnh của 1 trận chiến tranh hết sức đặc biệt giữa các dũng sĩ da đỏ và quân đội của chính phủ Liên bang Hoa kỳ vào năm 1876.

Trận đánh đã được coi là chiến thắng duy nhất của người da đỏ tiêu diệt toàn thể trung đoàn 7 kỵ binh của Hoa Kỳ. Hai bên đã chiến đấu dũng mãnh và ngày nay khu bảo toàn di sản chiến tranh có cả đài tưởng niệm 2 bên nằm cạnh nhau. Người Mỹ ngày nay mang sứ mạng gìn giữ lịch sử đã dựng lại một chiến trường mà chính phe Hoa Kỳ thảm bại.

Các mộ bia ghi dấu nơi các chiến binh 2 bên thực sự đã nằm xuống. Viện bảo tàng của trận đánh Little Bighorn đã có hình ảnh hết sức đồng đều vinh danh các chiến sĩ da trắng và da đỏ. Các sĩ quan, các quân lính. Một bên là chiến binh của chính phủ Hoa kỳ và một bên là các dũng sĩ da đỏ. Cả hai bên đều chiến đấu dũng mãnh. Đánh cho đến chết và nơi trung đoàn 7 hy sinh được quây lại 1 khu gọi là Last Stand Hill. Nơi tử chiến cuối cùng. Cũng do trận này mà dũng sĩ chỉ huy bên da đỏ là Crazy Horse được tuyên dương bởi người Mỹ da trắng và khắc hình ảnh trên núi đá. Cuộc chiến của người da đỏ chống da trắng là để giữ đất và lịch sử gọi là cuộc chiến để bảo vệ nền văn hóa du canh. Người da đỏ không có giấy tờ làm chủ ruộng đất. Đồng ruộng đất đai bao la, đâu cũng là đất của ta. Da đỏ sống đời du mục. Tìm đất mới, cắm lều, trồng tỉa, săn bắn một mùa rồi di chuyển. Người da trắng đến hỏi da đỏ là đất của anh ranh giới chỗ nào. Da đỏ nói là không có ranh giới. Nơi nào tiền nhân da đỏ được chôn cất, đó là đất của da đỏ. Da trắng nói rằng từ bao lâu nay cả ngàn da đỏ đã chết chôn ở khắp nơi thì chỗ nào cũng của Crazy Horse sao. Không thể chấp nhận được, đó là mâu thuẫn về nghệ thuật sống. Đó là lý do của chiến tranh. Từ ngàn xưa cho đến ngàn sau đất vẫn là tài sản quý giá của nhân loại.
du_lich_xe_bus_2_resized
Hình ảnh chuyến du lịch.
Những nhận xét.

Chúng tôi là những du khách đã qua tuổi cao niên. Sách luận ngữ bên Tàu đã viết rằng thất thập cổ lai hy. Tuổi 70 là hiếm có. Nay đã 80. Xem ra bát thập sắp ra đi. Đi chuyến này phần để tìm hiểu về núi sông quê hương mới dù đã ở tạm nửa đời người nhưng chẳng hề quen thuộc. Nhưng đi du lịch bằng xe bus kỳ này cũng là để thăm dò chính cơ thể của tuổi hoàng hôn. Chịu đựng được 7 ngày xe chạy ào ào, ngủ gà ngủ gật, lên lên xuống xuống, ăn vội ăn vàng và nhất là vấn đề vệ sinh cơ thể. Xem ra bộ máy xe già còn khá bền bỉ dù đã trải qua cả ngàn miles.

Rồi từ miền thị tứ xa lộ rối tinh tại California, chúng tôi trải qua 7 ngày rong ruổi trên những con đường độc đạo thẳng tắp đến chân trời. Qua bao nhiêu là cánh đồng muối, cánh đồng hoang, cánh đồng cát, cánh đồng dâu xanh. Những rặng núi trùng điệp liên tiếp bốn mùa tuyết phủ, những con đường xuyên rừng chạy bên những con sông. Khi con sông phía tả ngạn, khi luồn qua hữu ngạn. Tới những khu thắng cảnh chỉ toàn xe Bus và du khách. Đêm về những hotel, motel hay các lữ quán được coi là khá nhất của các thị trấn nhỏ.

Trên xe đi chung có người Úc, ngưới Anh, người Mễ. Có Việt Nam từ mọi phía. Có đủ loại dân Tàu, Tàu sinh sống bên Thái lan, Tàu lục địa, tàu Hồng kông, Tàu Đài Loan và Tàu San Fran. Tạm sống bên nhau 6 đêm 7 ngày. Phe Việt Nam San Jose xem ra là nhóm niên trưởng ngoại giao đoàn. Chúng tôi liên kết trung gian qua Anh ngữ với người Anh, người Úc, người Mễ và người Tàu. Thời gian còn ngắn ngủi nên chưa có bất đồng bất hòa. Mệt mỏi nhưng bình yên. Cả đám nhân loại khác biệt cùng đi du ngoạn thắng cảnh thiên nhiên và nhân tạo tại Hoa kỳ. Càng thấy những hình ảnh vĩ đại, chợt thấy con người nhỏ bé trong cõi tạm vô thường và tìm thấy được sự bình an trong tâm hồn. Đi du lịch vào miền Trung Mỹ mới tìm thấy người Hoa Kỳ thực sự, thấy được nước Mỹ còn đơn sơ với thường dân chưa từng biết đến Cali. Thấy được công trình mở nước vĩ đại của một quốc gia trẻ trung và hùng cường nhất thế giới. Là người di dân đến Bắc Mỹ muộn màng cuối thế kỷ 20, chuyến đi đơn giản cuối đời người là dịp ghi nhận công trình của tiền nhân Hoa Kỳ. Đồng thời vẫn nhớ đến công trình mở nước Nam tiến của tiến nhân Việt Nam.

Tiếp theo chúng tôi sẽ gửi đến các bài viết đầy đủ về hình tượng 4 vị tổng thống trên núi, chuyện dũng sĩ da đỏ Crazy Horse, và trận đánh bất hủ giữ đất bảo vệ nền văn hóa du mục của người da đỏ. Xin đón coi loạt bài du ký còn tiếp tục.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.