Hôm nay,  

Ký sự Hành Trình Tìm Tự Do

29/10/201300:00:00(Xem: 7054)
Trùng Dương
(Ghi và chụp)

New Orleans, October 20, 2013 Triển Lãm, Văn Nghệ, Dạ Tiệc Gây Quỹ Cho Phim Tài Liệu ‘Journey to Freedom of Vietnamese Americans’.

Ngày 20 tháng 10 vừa qua Hội Bảo tồn Lịch sử và Văn hoá Người Mỹ Gốc Việt (Vietnamese American Heritage Foundation – VAHF), với sự hỗ trợ của nhiều đoàn thể, hội đoàn địa phương, và đặc biệt của hai Giáo xứ Maria Nữ Vương Việt Nam và Thánh Agnê Lê Thị Thành, Trung tâm Phật Giáo Vạn Hạnh và chùa Liên Hoa, đã tổ chức một buổi sinh hoạt gồm triển lãm những thành quả hội đã thực hiện được trong gần 10 năm qua từ ngày thành lập, bên cạnh phần văn nghệ, dạ tiệc và đồng thời gây quỹ để thực hiện bộ phim “ Hành Trình Đi Tìm Tự Do Của Người Việt Tại Mỹ - Journey To Freedom of Vietnamese Americans” về hai cuộc di cư vĩ đại 1954 và 1975.

Buổi sinh hoạt diễn ra tại nhà hàng Crystal Palace trên đường Chef Menteur ở New Orleans East do Linh mục Michael Nguyễn Hoàng Nam và Ký giả Nguyễn Khanh của đài Radio Free Asia điều khiển, với phần văn nghệ do các ca sĩ Nguyên Khang, Thái Hà, Nguyễn Hồng Nhung và Ngọc Long từ xa tới, Vũ Quang và Bích Thủy và ban nhạc Tuổi Xanh tại New Orleans phụ trách.

Phát biểu về bộ phim “Journey to Freedom, hội trưởng VAHF, Triều Giang Nancy Bùi, cho biết“Hành Trình Đi Tìm Tự Do” là “bộ phim về hai cuộc di cư vĩ đại 1954 và 1975 của những người chọn tự do thay vì sự áp bức, phải rời bỏ quê cha đất tổ ra đi để tìm một đời sống tốt đẹp hơn với đầy đủ nhân phẩm. Phim sẽ nói lên việc cuộc chiến Việt Nam đã xé nát đời họ, gia đình họ và quê hương họ như thế nào; tại sao họ phải rời bỏ quê hương để ra đi và chuyến đi tìm tự do ấy đã diễn ra như thế nào; làm thế nào họ đã thích nghi với đời sống mới và đã đóng góp cho quê hương thứ hai này những gì; và còn những thách thức nào họ phải đương đầu trong cái gọi là ‘melting pot’ này.”
hanh-trinh-by-resized
Hình ảnh Triển Lãm, Văn Nghệ, Dạ Tiệc Gây Quỹ cho phim tài liệu này...

Bộ phim, cùng với các bộ sưu tập mà VAHF đã hoàn tất, nhằm nói lên lịch sử chính thống của người Việt tại Mỹ và lý do họ phải ra đi đến đây, một lịch sử mà chế độ Hànội đã cố tình bóp méo xuyên tạc hoặc tảng lờ, phản ảnh bởi nhiều sách vở phim ảnh phát hành tại Hoa Kỳ và đã len lỏi vào các học đường mà thế hệ con em chúng ta đã và đang phải học. Điển hình, Triều Giang nói, là cuốn sách giáo khoa “Vision of America – A History of the United States” xuất bản năm 2009 và tái bản năm 2012, do một nhóm giáo sư đại học soạn và hiện đang được dùng để giảng dậy ở bậc đại học.

Bộ sách giáo khoa này gồm hai tập với tổng cộng trên 1,000 trang, do nhà xuất bản Pearson ấn hành, trong đó phần nói về chiến tranh Việt Nam đã ca tụng Hồ Chí Minh như “cha già đáng yêu và thông thái”, là người “phản ánh các giá trị của Khổng Tử như lòng hiếu thảo đối với người sống cũng như đã chết, và xử sự nhân hậu đối với tha nhân”. Triều Giang cho biết theo các tác giả “Vision of America” thì Hồ Chí Minh là người đã từ bỏ nếp sống vật chất tiện nghi để hoà mình với người dân sống đời đơn giản, và đã, qua hai chiến thắng đối với Pháp và sau này Mỹ, giành lại được tự do và độc lập cho Việt Nam. Đây là điều người Việt tị nạn của cả hai kỳ di cư 1954 và 1975 không thể chấp nhận vì họ biết tại sao họ đã phải lìa bỏ quê cha đất tổ, nhà cửa, ruộng vườn, bất chấp hiểm nguy chết chóc để ra đi tìm sự sống.


Được biết Hội đã mời được chuyên viên viết truyện phim Elizabeth Orr và nhà diễn giải tên tuổi Peter Coyte giúp dẫn giải cho bộ phim “Journey to Freedom”. Bà Orr nguyên là bỉnh bút của nhật báo San Jose Mercury News và đã từng cộng tác viết truyện phim cho nhiều phim, trong đó có Walt Disney Studios/Don Bluth Productions. Ông Coyte từng xuất hiện trong nhiều phim, trong đó có “E.T. the Extra-Terrestial” của đạo diễn lừng danh Steven Spielberg, và đã dẫn giải cho nhiều phim, trong đó có bộ phim tài liệu “Prohibition” và “Dust Bowl” của nhà làm phim tài liệu tên tuổi Ken Burns.
hanh-trinh-a-resized
Hình ảnh Triển Lãm, Văn Nghệ, Dạ Tiệc Gây Quỹ cho phim tài liệu này...

Cho tới nay, VAHF đã và đang hoàn tất ba bộ sưu tập về lịch sử của người Việt tị nạn, gồm có 1) Bộ Sưu tập về Đợt Di Dân 1975 gồm hình ảnh, phim liệu và bài báo mà chính quyền, trường đại học và các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ tại Guam đã thu lượm và trao lại cho hội VAHF vào năm 2006; 2) Bộ Sưu tập về Tù Nhân Chính Trị Việt Nam do hội Families of Vietnamese Political Prisoners Association trao tặng, gồm tài liệu về hơn 300,000 cựu tù nhân (HO) và thân nhân họ và cuộc di tản tới Hoa Kỳ, hiện lưu trữ tại và đang được vi tính hoá (digitization) bởi Vietnam Center thuộc trường Đại học Tech Texas, Lubbock, TX; và 3) Bộ 500 Lịch sử Truyền khẩu gồm trên 500 cuộc phỏng vấn các nhân chứng sống về kinh nghiệm Việt Nam của họ, hiện đang được các trường đại học Austin, Houston, Rice ở Texas và University of California, Irvine chuyển băng và phiên dịch. Bộ sưu tầm 500 Lịch sử Truyền khẩu này là kết quả của sáu chuyến đi vòng quanh nước Mỹ trong hai năm trời của các phái đoàn phỏng vấn VAHF gồm toàn tình nguyện viên, hoàn tất nhờ 60,000 Mỹ kim do Tổng hội Sinh viên Việt Nam tại Bắc Mỹ (Union of North American Vietnamese Student Associations – uNAVSA) gây quỹ được và tặng cho hội, bên cạnh sự đóng góp của đồng hương khắp nơi.

Chương trình “Hành Trình Tìm Tự Do New Orleans” đã diễn ra trong bầu không khí thân mật, hào hứng, với sự tiếp tay đầy thiện chí của nhiều anh chị em tình nguyện tại địa phương. Tổng kết số thu được, Triều Giang cho biết, là 41,750 Mỹ kim. Sau khi trừ chi phí, số tiền còn lại khoảng 20,000 Mỹ kim sẽ được dùng “cho việc hoàn thành phim tài liệu ‘Hành Trình Tìm Tự Do’ để ghi lại cho con cháu bằng hình ảnh về nỗi thống khổ của cha ông qua hai lần liều chết đi tìm tự do để các em có đời sống tốt đẹp hôm nay.” Chị ngỏ lời “chân thành cám ơn quý hội đoàn, quý ông bà và anh chị thiện nguyện viên đã hết lòng hỗ trợ và giúp đỡ trong việc tổ chức được tốt đẹp.”...

Muốn tìm hiểu thêm về Hội VAHF, một tổ chức vô vị lợi, xin liên lạc: Địa chỉ bưu điện: VAHF, P.O. Box 29534, Austin, TX 78755; E-mail: [email protected]; Web site: http://www.vietnameseamerican.org.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Do đó, chỉ khi nào người dân được quyền trực tiếp chọn Lãnh đạo qua bầu cử tự do, công bằng và dân chủ thì khi ấy những kẻ bất tài, có thành tích xấu, hay chỉ biết thu vét cho đầy túi tham, lợi ích nhóm hay làm tay sai cho Ngoại bang mới bị loại khỏi đội ngũ cầm quyền. Ngược lại, nếu vẫn tiếp tục chọn người theo thông lệ “đảng cử dân bầu” hay “đảng chọn, cán bộ bỏ phiếu” thì có trăm năm, nhân dân Việt Nam vẫn chưa tìm thấy ánh sáng ở cuối đường hầm.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất tự do.
Thây xác trưng ra đó / Còn chưa đủ thối inh? / Mua chi thêm bầy ngựa / Cứt vung cả Ba Đình! - Trần Bang
Tôi sinh ra trong một cái xóm rất nghèo, và (tất nhiên) rất đông trẻ nhỏ. Cùng lứa với tôi, có cả tá nhi đồng mà tên gọi đều bắt đầu bằng chữ út: Út lé, Út lác, Út lồi, Út lùn, Út hô, Út còi, Út ghẻ, Út mập, Út sún, Út sứt, Út méo, Út hô, Út đen, Út ruồi, Út xẹo, Út trọc … Cứ theo cách thấy mặt đặt tên như vậy, người ta có thể nhận dạng và biết được thứ tự của đứa bé trong gia đình mà khỏi phải giới thiệu (lôi thôi) kiểu cách, theo kiểu Âu Tây: – Còn đây là thằng út, nó tên là Út rỗ. Vùa lọt lòng thì cháu rơi ngay vào một cái … thùng đinh! Riêng trường hợp của tôi thì hơi (bị) khác. Tôi tên Út khùng. Lý do: khi mới chập chững biết đi, tôi té giếng. Khi tìm ra con, nắm tóc kéo lên, thấy thằng nhỏ mặt mày tím ngắt, chân tay xụi lơ, bụng chương xình, má tôi chỉ kêu lên được một tiếng “rồi” và lăn ra bất tỉnh.
Chúng ta thấy gì qua những cuộc biểu tình và bạo lực tiếp theo sau cái chết của người thanh niên da đen George Floyd bị người cảnh sát da trắng Derek Chavin dùng đầu gối đè cổ nghẹt thở chiều ngày 25-5-2020 tại thành phố Minneapolis, bang Minnesota? Hàng trăm cánh sát dã chiến với trang bị tác chiến và măt nạ chống khói độc đối đầu với hàng ngàn người biểu tình đòi công lý cho George Floyd và đòi được sống bình đẳng với người Mỹ da trắng. Đó là cuộc đấu tranh chính đáng chống lại áp bức, chống lại bất công của một xã hội đa chủng đa văn hóa như nước Mỹ.
Có vài kinh điển đã nói đến chiến tranh và dùng bạo lực để trừng phạt, nhưng tìm cách biến đổi quan điểm thông thường của thế gian là bạo lực cũng đôi khi cần thiết bằng cách là đối thoại với một lý tưởng không dùng bạo lực. Về điểm này, Phật có nói đến mình như một người xuất thân từ giai cấp lãnh chuá. Trong hai bài pháp ngắn, Phật có bình luận về hai cuộc chiến xảy ra khi ác vương A Xà Thế, Ajàtasattu, tấn công vào lãnh thỗ của chú mình là vua Ba Tư Nặc, Pasenadi, cũng là một tín đồ của Ngài, và được coi như là người luôn làm việc thiện. Trong cuộc chiến đấu tiên, vua Pasenadi bị đánh bại và rút lui. Đức Phật có suy nghĩ về sự bất hạnh này và ngài nói rằng: “Chiến thắng gieo thêm hận thù, người bại trận sống trong đau khổ. Hạnh phúc thay cho một đời sống an hoà, từ bỏ đưọc mọi chuyện thắng thua. Điều này cho thấy rõ rằng sự chinh phục đem lại bi đát cho người thua cuộc mà chỉ đưa tới thù hận và dường như chỉ muốn chinh phục lại kẻ chinh phục.”
Chiều ngày 29/5 sau phiên xử phúc thẩm, một người dân ở xã Bình Phước, ông Lương Hữu Phước, đã trở lại toà án và nhảy từ lầu hai của toà để tự sát. Hình ảnh ông nằm chết, co quắp ngay trước sân toà nói lên nỗi tuyệt vọng, sự cô đơn cùng cực của người dân VN trước các phán quyết của toà án. Tôi chạnh nhớ đến câu nói của thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh trong phiên phúc thẩm của anh: “một lũ bất nhân đã làm ra phiên toà bất công”.
Ôi, tưởng gì chớ tật xấu của đàn ông (nói chung) và đàn ông Việt Nam (nói riêng) thì e đám đàn bà phải càm ràm cho tới… chết – hay ngược lại. Không mắc mớ gì mà tôi lại xía vô mấy chuyện lằng nhằng (và bà rằn) cỡ đó. Nhưng riêng hai chữ “cái làn” trong câu nói (“Lắm đấng ông chồng vui vẻ xách làn đi chợ…”) của Phạm Thị Hoài thì khiến tôi bần thần, cả buổi! Năm 1954, cái làn (cùng nhiều cái khác: cái bàn là, cái bát, cái cốc, cái ô, cái môi, cái thìa…) đã theo chân mẹ tôi di cư từ Bắc vào Nam. Cuộc chung sống giữa cái bàn là với cái bàn ủi, cái bát với cái chén, cái cốc với cái ly, cái ô với cái dù, cái môi với cái vá, cái thìa với cái muỗm… tuy không toàn hảo nhưng (tương đối) thuận thảo và tốt đẹp.
Hoa phượng được Nhất Tuấn gọi là hoa học trò vì thuở đó hầu như ngôi trường nào cũng trồng cây phượng trong sân trường. Khi phượng đơm hoa báo hiệu cho mùa Hè cũng là thời điểm chia tay sau niên học. Để lưu niệm, nữ sinh đóng tập Lưu Bút giấy pelure xen kẽ các sắc màu, trông thật nhã, ghi cảm nghĩ cho nhau… Ở lớp Đệ Tứ, không còn học chung nhau vì lên lớp Đệ Tam theo ban A, B, C và lớp Đệ Nhất là thời điểm chia tay vĩnh viễn, tập Lưu Bút dày hơn, chia sẻ, tâm tình… của tuổi học trò. Hầu như nam sinh không có Lưu Bút, chỉ được xía phần, dù có tinh nghịch nhưng phải viết đứng đắn, lịch sự.
Trong chị Thanh chỉ có một tấm lòng, chứ tuyệt nhiên không có “những bức tường lòng” phân cách Bắc/Trung/Nam – như rất nhiều người Việt khác. Tình cảm của chị tinh khiết, trong veo, và tươi mát tựa như dòng nước của một con suối nhỏ – róc rách, len lách – khắp mọi miền của tổ quốc thân yêu. Bởi thế, dù không biết chính xác chị được chôn cất nơi nao tôi vẫn tin rằng ở bất cứ đâu thì đất nước này cũng đều hân hoan ấp ủ hình hài của người thơ đa cảm, tài hoa, và chuân truyên nhất của dân tộc. Vĩnh biệt Nguyễn Thị Hoài Thanh. Em mong chị mãi mãi được an nghỉ trong an lành và thanh thản!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.