Hôm nay,  

Huyền Thoại Lam Giang

26/11/201300:00:00(Xem: 5502)
Lời mở đầu: Chiều chủ nhật 1 tháng 12-2013 hải quân VNCH sẽ hội ngộ tại Convention Center Santa Clara để ghi dấu Chuyến hải hành cuối cùng 38 năm về trước. Bài này viết riêng về HQ 402, con tàu duy nhất trên đường đi không đến.

*

Khi toàn thể hạm đội hải quân Việt Nam Cộng Hòa ra khơi ngày 30 tháng 4-1975 có môt chiến hạm rời Saigon sau cùng và không bao giờ đến bến tự do.

Hải vận hạm Lam Giang HQ 402 đã chìm trong lòng biển Thái Bình Dương sau khi làm tròn nhiệm vụ. Chỉ là con tàu tiếp vận, Lam Giang vào cuối cuộc đời đã ra đi từ hải xưởng đến biển Nam Hải cứu được 2 ngàn hành khách.

Trong cuộc đời sông biển, 2 tháng cuối cùng Lam Giang đã vớt hàng ngàn dân di tản từ miền Trung xuôi Nam. Sau cùng con tàu HQ 402 rã rời mệt mỏi phải vào sửa chữa tại Hải quân công xưởng Saigon.

Nhưng rồi Lam Giang đau ốm kiệt lực phải ra đi lần cuối cùng với 2 ngàn dân di tản tuyệt vọng. Chuyến đi huyền thoại đã được tác giả Điệp Mỹ Linh mô tả trong tác phẩm Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa ra khơi 1975.

Ai là người anh hùng hạm trưởng của Lam Giang vào ngày sinh tử cuối cùng. Theo truyền thống của hải quân, hạm trưởng Lam Giang phải là sĩ quan cấp tá ngành chỉ huy.

Nhưng chiều 30 tháng 4 – 1975 định mệnh đã giao số phận con tàu vào tay 1 trung úy ngành cơ khí cùng với toàn sỹ quan cấp úy. Hành khách trên con tàu tả tơi rách nát đó có cả các vị tướng tá mọi quân binh chủng và quân dân chánh VNCH nhập hạm trong những giờ phút sinh tử của Saigon.

Dựa vào tài liệu của nữ tác giả Điệp Mỹ Linh tôi xin kể lại câu chuyện lạ lùng như sau:

Trưa ngày 30 tháng 4-1975 đại tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Chiến xa của cộng sản đã vào dinh Độc lập. Nhiều tăng khác có mặt ngay trước hải quân công xưởng và bến Bạch Đằng.

Hải vận hạm Lam Giang vẫn còn nằm trong hải xưởng. Nhiều sĩ quan và đoàn viên đã tan hàng. Còn lại duy nhất trung úy cơ khí Cao Thế Hùng, một số thiếu úy và đoàn viên.

Ông Hùng ra lệnh sĩ quan an ninh bắn vỡ ổ khóa phòng hạm trưởng lấy tiền gọi là phát lương lần cuối cho anh em. Sau cùng tất cả giải tán. Trên HQ 402 chỉ còn lại 3 anh hạ sĩ quan xa nhà tạm thời ở lại tàu. Tương lai bất định.

Những đứa con lưu lạc của Lam Giang ngậm ngùi chia tay nhau. Nhưng lạ thay, lúc này hàng ngàn quân dân chính trong hải xưởng nháo nhác xuống tàu Lam Giang. Dù con tàu bất động nhưng trông vẫn uy nghi bề thế như sắp sửa khởi hành. Trong khi đó trung úy Hùng đã qua phía bộ tư lệnh đi về bến Bạch Đằng. Khi thấy chiến xa Việt cộng án ngữ, anh liền quay lại HQ 402. Hàng ngàn hành khách tuyệt vọng yêu cầu ông Hùng sửa chữa cho tàu ra khơi. Trong đó có cả các đoàn viên và sĩ quan HQ 402 cũng trở lại tàu.

Tuy nhiên, sau khi xem lại tình trạng 402, lại 1 lần nữa anh Hùng từ chối vì biết rằng tàu không sửa được nên lại bỏ đi. Các hành khách tuyệt vọng kéo anh trung úy cơ khí trở lại để đóng vai cứu nạn.

Địch thực sự đã đến cửa thành và 2 ngàn người nhất định ra đi quyết sống chết với con tàu bất hạnh.

Một cuộc sửa chữa hết sức lạ lùng với các tay thợ không chuyên môn và các sĩ quan cao cấp lo an ninh trật tự. Giữa cơn giao động của thủ đô Saigon, từ trưa đến 3 giờ chiều ngày 30 tháng tư, như một phép lạ, HQ 402 nổ máy ra khơi. Một hàng dài các thanh niên từ hầm máy đến đài chỉ huy để truyền lệnh miệng. Con tàu quay ngang quay dọc trên sông Saigon đâm vào câu lạc bộ nổi của hải quân rồi làm xập cả dãy nhà sàn bên Thủ Thiêm.

Trên công trường Mê Linh, lính cộng sản ngồi chiến xa tưởng là tàu trở về nên giơ tay vẫy.

Sau 1 giờ đồng hồ đầu tiên loay hoay giữa sông hết sức căng thẳng, Lam Giang ổn định và tiến ra Nhà Bè. Trên đường vượt thoát, nhiều ghe và tàu nhỏ mặc sức bám vào Lam Giang mà nhập hạm. Cho đến chiều 30 tháng 4-1975, HQ 402 gặp HQ 601 đang trên đường về lại Saigon báo tin ngỏ Vũng Tàu đã bị cộng sản chận rồi.

Nhưng rồi ngay tại ngã ba Soài Rạp, Lam Giang gặp được đại tá hải quân Lê Hữu Dõng. Ông Dõng đang chỉ huy các chiến đỉnh bảo vệ thủy lộ. Khi lên 402 ông rất ngạc nhiên và thán phục anh em đã đưa được con tàu bất khiển dụng ra được khỏi Saigon.

Giờ phút này dù hết sức đau yếu nhưng Lam Giang đã nhận thêm rất nhiều nhân vật của VNCH nhập hạm. Phó đề đốc Nghiêm văn Phú cùng các sĩ quan và quân nhân hải quân lên tàu trong đó có cả 2 người Mỹ.

Cho đến sáng 1tháng 5-1975 Lam Giang mới ra cửa biển và gặp tàu của Đệ Thất hạm đội. Một chiến hạn Destroyer của Hoa kỳ muốn đến giúp nhưng thấy Lam Giang cứ quay tròn suý?t đụng nên phải tránh xa. Giữa biển khơi Lam Giang liên lạc được với hạm đội và được lệnh cố đem tàu về tập họp tại Côn Sơn.

Sáng hôm sau tàu Mỹ trở lại đưa chuyên viên qua sửa chữa tàu HQ 402. Chuyên viên xem lại máy móc kết luận là không thể sửa chữa trong hoàn cảnh hiện tại. Kết luận kỹ thuật sau cùng đã khai tử Lam Giang giữa trùng khơi vạn l?ý. Báo cáo được trình lên tư lệnh đệ thất hạm đội Hoa Kỳ. Cho lệnh khai tử Lam Giang. Tàu Mỹ kẹp sát 1 bên HQ 402 để toàn thể đồng bào và chiến binh chuyển hạm.

Sau khi kiểm soát và rung chuông báo động nhiều lần để chắc rằng không còn ai trên Hải vận hạm Lam Giang, hai chiến hạm Hoa Kỳ bắn chìm 402 giữa biển khơi.

Lúc đó là 3 giờ chiều ngày 2 tháng 5-1975.

Trong chuyến hải hành cuối cùng của hạm đội Việt Nam Cộng Hòa, 402 là con tàu duy nhất tuẫn tiết.

Trung úy Cao thế Hùng, sĩ quan cơ khí của hải quân VNCH, người đặc trách sửa chữa con tàu cuối cùng rời bến Saigon, đứng nhìn Lam Giang chìm sâu xuống Thái bình Dương. Nhân dịp San Jose hội ngộ trùng dương vào cuối năm 2013 Dân Sinh Media đã có dịp phỏng vấn trung úy Hùng và chưa hết. Có thêm một trung úy hải quân ở ngay tại San Jose cũng từng lái Lam Giang 402 vào ngày giờ cuối đã lên đài kể lại đầu đuôi.

Những người được cứu thoát trên Lam Giang 402 vào ngày 30 tháng 4-1975 nghiệt ngã. Tháng 4-2015 là 40 năm sau có thể sẽ họp mặt và cùng xác định xem ai là ông hạm trưởng cuối cùng của con tàu vĩnh biệt cứu được 2.000 hành khách.

Đó là 1 huyền thoại đáng ghi trong lần trùng dương hội ngộ tại San Jose 1 tháng 12 năm nay.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.