Hôm nay,  

Ngọn Hải Đăng Nelson Mandela

12/12/201300:00:00(Xem: 4682)
...Mandela có sự ủng hộ của nhiều người da trắng vì họ tin vào thực tâm sống chung của ông...

Tuần này, cả thế giới thương tiếc trong niềm ngưỡng mộ ông Nelson Mandela, một nhà lãnh đạo của Cộng Hoà Nam Phi vừa từ trần ở tuổi 95 sau một đời đấu tranh cho tổ quốc. Nhìn từ giác độ kinh tế, và từ Việt Nam, kinh nghiệm của ông Mandela có gì là đáng nhớ và đáng học hỏi? Mục Diễn Đàn Kinh Tế nêu vấn đề với chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa qua cuộc phỏng vấn sau đây.

Gia Minh: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Thưa ông, tuần này chúng ta sẽ tạm ngưng phần tổng kết cuối năm vì khi thực hiện chương trình này khi Cộng Hoà Nam Phi đang tổ chức lễ quốc táng cho ông Nelson Mandela với sự tham dự của cả trăm nguyên thủ quốc gia trên thế giới. Từ nhiều năm qua, thế giới ngưỡng mộ nhân vật xuất chúng này với Giải Nobel Hoà Bình, Huân chương Tự Do của Tổng thống Hoa Kỳ và Huân Chương Lenin cho Hoà Bình Quốc Tế của Liên bang Xô viết. Nhìn từ Việt Nam và theo giác độ kinh tế, thì ông Nelson Mandela có để lại những kinh nghiệm gì mà chúng ta nên học hỏi không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ là nếu muốn học thì người ta có thể học được rất nhiều, đầu tiên là từ di sản ông Mandela nhận được từ lịch sử trên mảnh đất gọi là Cộng Hoà Nam Phi.

- Khác với Việt Nam đã là quốc gia độc lập trong ý nghĩa là một cộng đồng dân tộc hiện hữu từ mấy ngàn năm trước, nước Cộng Hoà Nam Phi chỉ manh nha thành hình từ giữa thế kỷ 17, khi Công ty Đông Ấn của Hà Lan bành trướng hoạt động xuống miền Nam của Phi Châu để tiến về Ấn Độ dương và qua Châu Á. Vào thời ấy, ta chưa có kênh đào Suez để vận chuyển hàng hóa giữa hai lục địa Âu Á bằng đường biển mà phải vòng qua Mũi Hảo Vọng ở cực Nam Phi Châu.

- Sau Hà Lan, các nước Âu Châu khác cũng tìm đến vùng đất này làm tiền trạm phát triển cơ sở kinh doanh và còn tranh chấp hoặc gây chiến với nhau. Khi đó, lãnh thổ xứ này có các bộ lạc của nhiều sắc tộc khác nhau và trở thành một quốc gia của di dân da trắng, gọi là dân Afrikaners. Họ chỉ là thiểu số, ngày nay khoảng 9%, mà thống trị đa số còn lại gồm có 80% là người Phi Châu da đen, 9% là dân da màu và chừng 2,5% là người gốc Á Châu, đa số là Ấn Độ.

- Khi muốn giành quyền bình đẳng cho dân da đen, ông Mandela đấu tranh trong một tổ chức do Đệ tam Quốc tế của Liên Xô lập ra tại Nam Phi, là Nghị Hội Quốc Gia Phi Châu, gọi tắt là ANC. Ông ta thành công vì sớm hiểu rằng tổ chức này xuất phát từ lòng dân chứ không thể là định chế khai sinh ra quốc gia như nhiều người cộng sản Việt Nam ngày nay vẫn lẩm tưởng và làm người dân hiểu lầm theo, rằng không có đảng Cộng sản thì Việt Nam không có độc lập.

Gia Minh: Ông nêu ra bài học về ý thức dân tộc lồng trong sự kiện tổ chức đấu tranh ANC này của Nam Phi lại do Liên Xô lập ra, có lẽ chẳng khác gì đảng Cộng sản Việt Nam từ đầu nguồn vào chín mươi năm về trước.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng đúng vậy. Vì nước Nam Phi này do người da trắng lập ra với chế độ phân biệt chủng tộc "apartheid", là một từ ngữ Hà Lan, dân Nam Phi da đen có thể lầm tưởng quốc gia của họ chỉ thành hình từ khi có tổ chức Nghị hội ANC, chứ dân Việt Nam thì đấu tranh chống thực dân Pháp từ thế kỷ 19, và trước khi có chủ nghĩa cộng sản. Đó là một bài học.

- Bài học thứ hai từ quá trình đấu tranh của ông Nelson Mandela là ta có nhiều phương thức khác nhau. Xứ Nam Phi ở giữa Đại Tây Dương ở hướng Tây và Ấn Độ Dương tại hướng Đông đã tiếp nhận nhiều di dân Ấn Độ. Ngày xưa, lãnh tụ Gandhi của người Ấn đã từng tới Nam Phi quảng bá phương thức đấu tranh bất bạo động. Nhìn lại thì cũng không khác gì chủ trương ôn hòa của cụ Phan Châu Trinh nếu so với tinh thần bạo động của cụ Phan Bội Châu. Nhưng dù có khác biệt về chủ trương, hai cụ không coi nhau là kẻ thù phải tiêu diệt. Ban đầu, luật sư Nelson Mandela cũng theo chủ trương ôn hòa của Gandhi, khi thấy không thành công thì mới đổi qua phương thức bạo động và đánh bom các cơ sở an ninh của người da trắng. Vì vậy mà ông bị kết án năm năm tù rồi đổi qua tù chung thân từ năm 1964. Trong 27 năm ngồi tù, ông nghiền ngẫm lại bài học đấu tranh và chuyển về phương thức ôn hòa bất bạo động căn cứ trên hoàn cảnh của đất nước.

Gia Minh: Thưa ông hoàn cảnh của Nam Phi khi đó là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ta không quên Nam Phi có một lãnh thổ rất lớn, rộng gấp bốn Việt Nam, với nhiều tài nguyên đáng kể hơn các nước Phi Châu ở chung quanh. Ngoài canh nông, xứ này có trữ lượng rất cao về kim cương và vàng để bán cho các nước Âu Châu và một kho kim loại hiếm rất cần thiết cho các nước muốn công nghiệp hóa tại Á Châu. Vào thời đó, việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên này nằm trong tay các tập đoàn kinh tế Tây phương và dân da đen chỉ làm công ở dưới và bị thiểu số da trắng ngược đãi. Chính là chế độ bất công ấy mới bị thế giới kết án và trừng phạt qua chính sách phong toả kinh tế, gọi là cấm vận. Gặp hoàn cảnh đó, ai cũng có thể nghĩ tới giải pháp triệt để là lật đổ và tiêu diệt chế độ cai trị của người da trắng để dân da đen lên làm chủ đất nước. Ông Mandela lại nghĩ khác.

Gia Minh: Khi đó, ông Nelson Mandela chủ trương những gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Là lãnh tụ kỳ cựu của dân da đen ở trong tù, Mandela được chính quyền da trắng tiếp xúc khi xứ Nam Phi của dân da trắng bị thế giới lên án và trừng phạt. Qua các cuộc tiếp xúc ở trong tù, ông Mandela thương thảo ngay về quy chế sống chung giữa đa số da màu và thiểu số da trắng. Rồi chính là sự thiết tha của Mandela về số phận của dân da trắng mới làm Tổng thống Nam Phi khi ấy là F. W. de Klerk tin vào thiện chí hòa giải và bắt đầu tiếp xúc. Từ các cuộc tiếp xúc và đàm phán ấy mới có quyết định ân xá ông Mandela vào năm 1990 và việc tổ chức bầu cử sau này. Nhờ thiện chí của đôi bên mà cả hai ông Mandela và de Klerk đều được Giải Nobel Hoà Bình vào năm 1993, một năm trước khi ông Mandela đắc cử Tổng thống và ông de Klerk làm Phó Tổng thống. Ta không quên là trong cuộc tranh cử để thành Tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi, ông Mandela có sự ủng hộ của nhiều người da trắng vì họ tin vào thực tâm sống chung của ông. Bài học ở đây của Mandela là ta muốn sống thì phải để người khác sống, chứ tiêu diệt người khác thì xứ sở không có hoà bình thịnh vượng. Đây không là giả thuyết mà là thực tế nếu ta để ý đến hoàn cảnh bi đát của một nước láng giềng là Cộng Hoà Zimbabwe sau khi dân da đen nổi lên và tiêu diệt Cộng Hoà Rhodesia của dân da trắng từ năm 1979 trở về sau.

Gia Minh: Sau khi đắc cử Tổng thống trong tinh thần thật sự hoà giải, ông Nelson Mandela đã làm những gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Có một chi tiết do Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nam Phi kể lại là đầu năm 1992, ông Mandela dự hội nghị của Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại Davos của Thụy Sĩ. Nơi đây ông có gặp đoàn đại biểu của Trung Quốc và Việt Nam và trình bày với họ chủ trương của tổ chức Nghị hội ANC một khi thắng cử. Đó là quốc hữu hóa các doanh nghiệp để nhà nước tập trung quản lý.

- Ta nhớ rằng Nghị hội ANC là một tổ chức cộng sản bên trong có nhiều xu hướng khác nhau nhưng đa số còn lầm tưởng về con đường xã hội chủ nghĩa. Thế rồi nhờ tiếp xúc với bên ngoài, kể cả các viên chức của Bắc Kinh và Hà Nội, ông Mandela mới thấy rằng quốc hữu hóa tư doanh và quản lý theo kiểu tập trung là đi ngược trào lưu phát triển. Khi trở về, ông dùng uy tín rất lớn của mình để thuyết phục các đảng viên. Nếu ông ta dại dột cải tạo kinh tế theo kiểu lạc hậu thì xứ Nam Phi sẽ chứng kiến nạn tẩu tán tài sản rồi di tản, và xứ sở non yếu sẽ kiệt quệ vì thiếu tư bản và kỹ thuật khai thác nguồn tài nguyên phong phú của họ. Khi đó, dân Nam Phi sẽ chết đói trên đống vàng và chắc chắn là bị khủng hoảng. Đấy là một bài học về lý luận dựng nước.

Gia Minh: Có lẽ chi tiết ông vừa nêu là điều khá lý thú mà vẫn có ý nghĩa hiện đại nếu ta nhớ tới tình trạng tiêu cực của hệ thống quốc doanh tại Trung Quốc và Việt Nam. Ngoài ra, ông còn thấy bài học nào khác từ ông Mandela khi ông ta lên làm Tổng thống?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi cho rằng các nước nhược tiểu Á Phi đều có một nếp văn hóa rất tệ là "ở đời muôn sự của chung". Vì là của chung, những kẻ có quyền rất dễ tự nhiên biến quyền thành lợi. Họ trưng thu công sản làm tài sản riêng cho gia đình, tay chân, thân tộc hay thị tộc. So với nhiều lãnh tụ Á Phi, Tổng thống Mandela ít bị tai tiếng như vậy chính là do tinh thần đạo đức của ông ta hơn là vì cơ chế dân chù hay luật lệ minh bạch. Lý do là sau Mandela, nhiều lãnh tụ Nam Phi chẳng được như vậy và bị phê bình khá nặng về tội tham nhũng và chính sách bất công.

- Bài học còn quan trọng hơn là sau khi làm Tổng thống hết nhiệm kỳ năm năm, ông Mandela thật sự rút khỏi chính trường để làm thường dân. Ta thấy nhiều anh hùng độc lập Á Phi đã nhiễm bệnh mê quyền và tưởng rằng họ là người không ai thay thế được. Hoặc thiếu họ là xử sở sẽ bị loạn. Từ đó, họ biến dần thành nhà độc tài và được tay chân tổ chức ra việc sùng bái để trục lợi. Vì vậy, sau khi các quốc gia này giành lại độc lập là bị ách độc tài di cùng nạn tham nhũng khiến xứ sở và người dân còn lụn bại hơn thời trước. Sau khi ra về, với uy tín rất cao, ông Mandela không thủ vai thái thượng hoàng hoặc đồng chí Cố vấn để tiếp tục chi phối vào chính trường. Ông chỉ có tiếng nói của tinh thần đạo đức và để người kế nhiệm quyết định về việc lãnh đạo. Tôi nghĩ rằng đây là bài học của nền dân chủ, rằng chẳng có ai là người không thay thế được.

Gia Minh: Nếu đếm lại thì có lẽ người ta tiếp nhận được sáu bảy bài học từ đạo đức tới chính trị và kinh tế của ông Nelson Mandela. Lời kết của ông là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ông Nelson Mandela nhận lãnh di sản địa dư và lịch sử trên một xứ sở có nhiều tài nguyên và lợi thế lẫn nhiều thách đố và vấn đề. Ông ta hy sinh bản thân, giải quyết vấn đề của đất nước và để lại một di sản tốt đẹp hơn cho các thế hệ về sau. Thế giới kính phục và ngợi ca ông Mandela chính là vì các đức tính hiếm hoi đó, nhất là tinh thần khắc kỷ quên mình, và vì ông tin vào sự tử tế của con người, một niềm tin có khía cạnh tôn giáo, của người đốt đuốc soi đường cho người khác.

- Sau đó, là ngày nay đây, Cộng Hoà Nam Phi cũng có rất nhiều vấn đề kinh tế và xã hội mà các thế hệ nối tiếp phải cùng nhau giải quyết. Tang lễ dành cho ông Mandela có thể là cơ hội cho các thế hệ này suy ngẫm và có can đảm giải quyết như ông Mandela đã từng làm khi còn tại thế.

Gia Minh: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc phỏng vấn này.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên số, nơi mọi thứ đều được đo bằng thuật toán: nhịp tim, bước chân, năng suất, thậm chí cả tình yêu. Thuật toán không có tình cảm, nhưng khôi hài vì chúng ta điều khiển thuật toán bằng cảm xúc.Máy móc có thể xử lý hàng tỷ dữ liệu mỗi giây, còn con người — chỉ cần một tưởng tượng — mọi thứ biến hoá. Cảm xúc lan truyền nhanh hơn tin tức, giận dữ được tối ưu hóa bằng công nghệ, và hạnh phúc được đong đếm bằng lượt thả tim. Chúng ta tưởng mình tiến hóa thành sinh vật lý trí, nhưng thật ra chỉ là sinh vật cảm xúc có Wi-Fi. Trong khi AI đang thao túng mọi lãnh vực, chúng ta loay hoay với cảm xúc, thao túng mọi ý nghĩ, hành vi.
Năm 2025 sắp khép lại, và theo thông lệ hàng năm, các nhà từ điển trên thế giới lại đi tìm từ ngữ để chọn đặt tên cho cái mớ hỗn độn mà nhân loại vừa bơi qua trong năm. Oxford chọn cụm từ “mồi giận dữ” (rage bait). Theo các nhà ngôn ngữ học của Oxford, đây là cách tiếng Anh vẫn thường vận hành: hai chữ quen thuộc — “giận dữ” và “mồi nhử” — ghép lại trong bối cảnh trực tuyến để tạo nên một ý niệm mới: thứ nội dung bày ra để cố tình khêu gợi bản tính nóng nảy của người xem, người đọc, khiến thiên hạ phải lao vào vòng tranh cãi chỉ để cuối cùng bấm thêm một cú “tức” nữa.
Tài năng như ông vua tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung cũng chỉ có thể tạo ra những vị tướng phản diện nhưng có võ công cao cường và chí lớn, chứ không thể giả mạo làm tướng. Mộ Dung Phục, tức Nam Yến Quốc, là một trong nhiều ví dụ. Mộ Dung Phục là kẻ háo danh, không từ thủ đoạn để đạt mục đích. Hắn sẵn sàng bỏ quên nhân nghĩa, thậm chí phản bội anh em, bạn bè, để leo lên nấc thang quyền lực, khôi phục nước Yên. Nhưng vẫn là một kẻ võ công cái thế. Đối thủ của Mộ Dung Phục là anh hùng chính nghĩa Kiều Phong. Bởi vậy, mới có câu "Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung" để chỉ hai cao thủ võ lâm mạnh nhất thời bấy giờ. Vậy mà nước Mỹ hôm nay lại có bộ phim kỳ quái về một kẻ giả danh tướng, khoác lên mình chiếc áo quyền lực để công kích một anh hùng, một đại tá Hải Quân, một phi hành gia của NASA, một người yêu nước đích thực.
Trong lúc hàng triệu người không đủ thực phẩm để ăn, chính quyền của Tổng thống Donald Trump lại để mặc cho nông sản thối rữa hàng loạt ngoài đồng, trong kho bãi, và thậm chí còn trực tiếp tiêu hủy hàng ngàn tấn thực phẩm viện trợ. Tất cả đều nhân danh mục tiêu “nâng cao hiệu quả” của bộ máy chính phủ. Những thay đổi quyết liệt trong chính sách thuế quan, các cuộc bố ráp di dân gắt gao và cắt giảm các chương trình hỗ trợ người dân như tem phiếu thực phẩm đã khiến nông dân kiệt quệ vì thiếu nhân lực và vốn liếng. Nông sản thì bị bỏ mặc cho mốc meo trong kho và thối rữa ngoài đồng, trong khi hàng triệu người dân rơi vào cảnh đói kém. Đó là chưa kể đến những trường hợp chính quyền trực tiếp tiêu hủy nguồn thực phẩm hoàn toàn có thể sử dụng được.
Quan hệ Trung Quốc-Ấn Độ-Hoa Kỳ phản ánh sự dịch chuyển mạnh của trật tự quyền lực toàn cầu. Trung Quốc và Ấn Độ có tiềm năng hợp tác lớn nhờ quy mô dân số và kinh tế, nhưng nghi kỵ chiến lược, cạnh tranh ảnh hưởng và tranh chấp biên giới khiến hợp tác bị hạn chế. Với Mỹ, việc Ấn Độ nghiêng về Trung Quốc có thể làm suy yếu chiến lược kiềm chế Bắc Kinh, trong khi tranh chấp thương mại như thuế 50% của Mỹ càng làm quan hệ thêm bất ổn...
Nếu có ai nói, nhạc của Trịnh Công Soạn giống như nhạc Trịnh Công Sơn, đôi bài nghe còn ác liệt hơn. Chắc bạn sẽ không tin. Tôi cũng không tin, cho đến khi tôi nghe được một số ca khúc của Trịnh Công Soạn, quả thật là như vậy. Tôi nghĩ, nếu anh này dứt bỏ dòng nhạc Trịnh cũ mà khai phá dòng nhạc Trịnh mới, thì chắc anh sẽ thành công. Người viết lách thì tính hay tò mò và mến mộ tài năng, tôi dọ hỏi người quen và nhất là những ca sĩ trẻ mong được nổi bật, đã tranh nhau khởi sự hát nhạc của Soạn. Cuối cùng, tôi cũng tìm đến được nhà anh. Gõ cửa. Mở.
Vào một buổi sáng Tháng Sáu năm 2025, dân biểu, cựu chủ tịch Hạ Viện đảng Dân Chủ tiểu bang Minnesota, Melissa Hortman, một trong những nhà lập pháp được kính trọng nhất của tiểu bang, và chồng của bà bị bắn chết tại nhà riêng. Chú chó cảnh sát lông vàng của họ, Gilbert, cũng ra đi với chủ. Vụ giết người này không phải là ngẫu nhiên. Thượng nghị sĩ John Hoffman và vợ cũng bị tấn công cùng ngày, nhưng may mắn sống sót. Chính quyền sớm tiết lộ thủ phạm, Vance Boelter, 57 tuổi, người theo chủ nghĩa cực hữu, đã viết bà Hortman vào “danh sách mục tiêu” bao gồm các nhà lập pháp Đảng Dân Chủ khác.
Ngày đi phỏng vấn thẻ xanh để trở thành thường trú nhân Hoa Kỳ thường là một ngày tràn đầy hy vọng và đáng nhớ, đặc biệt đối với những đôi vợ chồng, hoặc những hôn phu, hôn thê. Lễ Tạ Ơn tưởng đâu là ngày họ sum vầy, nói câu “Tạ ơn nước Mỹ” với những hy vọng về một tương lai tốt đẹp. Nhưng điều đó không xảy ra trong thời này, ở Hoa Kỳ. Khi bước cuối cùng trong quá trình xin thường trú nhân Hoa Kỳ, là cuộc phỏng vấn với viên chức di trú kết thúc, các đặc vụ liên bang lại ập đến, còng tay người vợ/chồng người ngoại quốc và đưa họ đi. Hy vọng trở thành ác mộng.
Dự thảo Hòa ước Ukraine do Hoa Kỳ và Nga đề ra gồm có 28 điểm đã được công bố gần đây. Kết quả của diễn biến này khá bất thường vì không có sự tham gia đàm phán của Ukraine và Liên minh châu Âu (EU)...
Trong một nghiên cứu phối hợp giữa đại học Hồng Kông và đại học Rutgers tại Mỹ cùng một số khoa học gia trong khu vực hồi tháng 8 năm 2024, báo cáo này chỉ ra rằng vị trí của Việt nam sẽ là một "điểm nóng" của những cơn bão nhiệt đới với cường độ dữ dội và thường xuyên hơn trước sự biến đổi khí hậu toàn cầu, với rủi ro cao là ngay Hải Phòng.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.