Hôm nay,  

Hồi Ký Cam Ranh

14/12/201300:00:00(Xem: 6381)
Giao Chỉ, San Jose
(Trích trong tuyển tập hồi ký Giao Chỉ. Cuộc đời chiến binh VNCH ai cũng có một ngày 30 tháng tư. Riêng kỳ niệm của tôi lại bắt đầu vào tháng ba, tại Cam Ranh)

CHUYỆN HẢI QUÂN

Đầu tháng 12-2013 hải quân VNCH họp mặt tại San Jose. Ngoại trừ đô đốc Chơn, người địa phương, chẳng có ông tướng hải quân nào về tham dự. Lý? do duy nhất là tuổi già, sức yếu. Ông phó đề đốc Diệp Quang Thủy ở San Mateo, ngay bên cạnh cũng không về được. Ông nói chuyện hải quân ra khơi qua điện thoại.

Đó là kỳ phỏng vấn cuối cùng. Một tuần sau ngày đại hội ông qua đời. Vị tướng tham mưu trưởng hải quân mất ngày 6 tháng 12-2013, hưởng thọ 82 tuổi. Ngày 11tháng 12-2013 tôi đi dự tang lễ ở San Mateo. Anh em hải quân phủ cờ, nhưng chỉ có gia đình và thân hữu hiện diện. Ông tướng hiền lành nhất của hải quân Việt Nam Cộng Hòa ra đi cũng đơn giản như thời kỳ ông còn lái xe lunch để bà nhà bán cơm trưa cho anh em làm hãng xưởng tại San Jose. Ông tướng cao lớn, đẹp trai, hào hoa nhưng hiền lành và lương thiện. Sống giản dị, chết cũng chẳng ồn ào. Cái chết của ông Thủy làm tôi nhớ lại chuyện của mình. Lần này tôi không viết nhiều về chuyện ra đi của ông tướng hải quân. Tôi viết về chuyện của tôi. Tựa đề Hồi k?ý Cam Ranh. Gần 40 năm trước, trên chuyến bay định mệnh từ Saigon ra Cam Ranh, chúng tôi ngồi chung 1 tàu. Sứ mạng vĩ đại được trung ương giao phó là tái trang bị cho binh sĩ của quân khu I và II về tập trung tại Cam Ranh. Ông xếp đại diện tổng tham mưu là thiếu tướng pháo binh Nguyễn xuân Trang. Tôi, đại tá Vũ văn Lộc phụ tá và lo về tiếp vận. Đại tá Trường lo về quân số. Đại tá Huy, tham mưu phó tiếp vận sư đoàn Dù lo cho lính mũ đỏ ở mặt trận Khánh Dương. Phó đề đốc Thủy là tham mưu trưởng lo việc hải quân. Trên tàu bay còn có 1 trung đội quân cảnh của tổng tham mưu để giữ trật tự. Mỗi vị đều có các sĩ quan tham mưu và cận vệ tháp tùng. Phần tôi có đại úy Nguyễn thế Đỉnh, gốc biệt động quân. Anh là quận trưởng, bị thương ở chi khu, mới đổi về tổng tham mưu. Tôi mang đi theo để có tay súng tác chiến yểm trợ ông thầy.

Chúng tôi xuống Cam Ranh rồi mỗi người đi 1 ngả. Những tưởng sẽ hẹn nhau trở về Saigon. Nhưng rồi chỉ vài ngày sau tan hàng tại chỗ, chúng tôi chẳng còn gặp lại nhau. Bây giờ đại tá Trường chết ở quận Cam, đại tá Huy dù đã chết bên Texas, thiếu tướng Trang ở lại đi tù. Khi HO qua Mỹ tôi có đón ông chuyển tiếp tại phi trường San Francisco. Ngày nay chẳng biết tin tức ra sao. Còn ông đề đốc Thủy, dù cũng chẳng xa xôi gì mà cũng không gặp mặt. Ai ngờ tôi gặp lại lúc đưa ông về chốn vô cùng.
resized-cam-ranh-opy

DUYÊN NỢ CAM RANH

Tuy rằng chuyến bay ra Cam Ranh với tướng Trang và tướng Thủy là chuyến bay cuối cùng tháng 4-1975 nhưng không phải là chuyến bay đầu tiên của tôi. Trong cái giai đoạn đau thương của đất nước tôi đã lãnh công tác bay ra Nha trang ngày 15 tháng 3/1975. Công tác yểm trợ cho việc tái chiếm Ban Mê Thuột. Chắc anh em còn nhớ ông Thiệu họp hội đồng an ninh quốc gia tại Cam Ranh ngày 14 tháng 3/1975 cho lệnh rút quân đoàn II. Lúc đó đại tướng Viên đi họp về đã cho chuẩn tướng Thọ trưởng phòng 3 biết tin. Nhưng các xếp hoàn toàn giữ bí mật. Sáng 15 tháng 3/1975 bộ tư lệnh quân đoàn II đã bỏ cao nguyên mà phái đoàn tổng tham mưu của chúng tôi cứ phoong phoong lên máy bay ra Nha Trang như chuyến đi bình thường. Khi vào bản doanh bộ tư lệnh của quân đoàn II ở Nha Trang đã thấy ông Phú đang cầm máy hò hét các cánh quân. Ông mới từ Pleiku về hôm trước. Bỏ lại anh bạn Cương Quyết Thủ Đức của tôi là đại tá Lê khắc Lý, tham mưu trưởng quân đoàn với cả miền cao nguyên đang hoảng loạn. Xem cung cách của vị tư lệnh Phú lúc đó đã thấy quân đoàn II đang vất vả lắm rồi. Chẳng kỳ vọng gì chuyện tái chiếm Ban mê Thuột. Anh bạn Cương Quyết Đà Lạt, đại tá Vũ Thế Quang, tư lệnh phó sư đoàn 23 đã bị giặc bắt đang trên đường Việt Cộng giải ra Bắc.Tôi lấy xe chạy qua ngã ba đường đèo lối vào quận Ninh Hòa. Đón được những chuyến xe đi sớm nhất từ Pleiku lọt được về duyên hải. Một xe jeep đậu bên đường. Anh tài xế bị thương bế 2 đứa nhỏ phía sau. Một tay trung úy lái xe mắt đỏ với bộ mặt đau thương giận dữ. Người đàn bà ngồi bên cạnh băng bó toàn thân. Tôi lại gần mới biết, người vợ đã chết được buộc ngồi vào ghế trưởng xa. Đầu ngả 1 bên. Anh trung úy thấy tôi đeo lon đại tá mang huy hiệu bộ tổng tham mưu, chợt buông tiếng chửi thề rồi lên xe chạy tiếp. Tôi nghĩ rằng mình sẽ đem tiếng chửi về lại bộ tổng tham mưu. Có thể gọi cả điện thoại cho đại tá Đỗ đức Tâm đang làm việc tại võ phòng, để trình lên tổng thống! Tôi quay về Nha Trang, nhưng không ghé vào quận Ninh Hòa. 38 năm sau mới biết nếu ghé Ninh Hòa, sẽ gặp trung tá Đỗ Hữu Nhơn đang ngồi tại quận này. Ông Nhơn, một đời đi lính lực lượng đặc biệt, 3 lần quận trưởng, bây giờ là thân hữu già cùng khóa Cương Quyết, cư ngụ tại San Jose.

Trở về tổng tham mưu tôi báo cáo tình hình cho các xếp. Nhưng xem ra tin tức về chuyện rút quân cao nguyên đã rung động cả Saigon. Ai cũng biết tin tức đau thương qua bản tin của Nguyễn Tú đăng trên báo Chính Luận.

Hai tuần sau đại tướng Viên ra lệnh cho tiền doanh tổng tham mưu lên đường. Tướng Trang cao niên và hiền lành được cử làm trưởng phái đoàn, đại tá Lộc mới đi về, coi bộ thuộc đường đi nước bước, được chỉ định trở lại Cam Ranh. Đi lần này có tướng tham mưu trưởng hải quân, ông Thủy. Có đại tá Dù, ông Huy. Có ông Trường, một tay ngon lành của TTM, chuyên viên về quân số. Có hơn 20 anh quân cảnh. Xem ra chẳng có hy vọng gì tái tổ chức được 2 quân đoàn và lập phòng tuyến thép. Ngồi trên phi cơ, anh em chúng tôi không ai nghĩ là sẽ làm được chuyện phi thường.

Lúc đó xếp xòng thị xã Cam Ranh là đại tá Liễu, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy 5 tiếp vận và quân trấn Cam Ranh là đại tá Mai duy Thưởng. Qua đêm đầu yên tĩnh. Buổi sáng tướng Trang nói với anh em là "moi" ngủ không yên. Cứ hắt hơi suốt đêm. Ông tâm sự, ngày xưa lúc còn trong quân đội liên hiệp Pháp, trước khi bị Nhật bắt "moi" cũng bị như thế này. Điềm rất xấu. Ông thở dài. Chúng tôi cũng lại nghe thêm toàn tin xấu. Tin Đà nẵng thất thủ, rồi đến Quy Nhơn tan vỡ. Tôi vui mừng được biết tại Quy Nhơn hải quân vớt được anh em ở bộ chỉ huy 2 tiếp vận. Các hạm đội hải quân tập trung về Cam Ranh. Máy bay C47 của đại tướng Viên bay ra dự trù đón tướng Trưởng và phái đoàn tổng tham mưu trở về. Nhưng ông Trưởng không lên bờ và máy bay cũng không đáp xuống được. Phi trường khá đông người và mất trật tự. Tôi gặp tướng Nhựt sư đoàn 2 từ chiến hạm lên thăm dò tình hình Cam Ranh. Hỏi ông có cần trang bị gì cho sư đoàn. Ông quay ra bến tầu, vừa đi vừa lắc đầu. Không tìm thấy đại tá Huy Dù, tôi bèn qua trung tâm bảo toàn để tìm cách liên lạc với đơn vị yểm trợ tiền tuyến bên cạnh mặt trận Khánh Dương. Chợt có tin một phi cơ C130 của không quân đã đáp xuống đang chờ lệnh. Vội chạy ra phi trường. Ở đây đúng là hỗn quân hỗn quan. Tin tức về phi trường nổi loạn ở Đà Nẵng và việc bắn giết nhau trên bãi biển và ngay cả trên sà lan, trên tàu di tản đã tạo không khí kinh hoàng cho Cam Ranh. Binh sĩ tan hàng từ chiến hạm lên bờ tìm thực phẩm. Súng ống lựu đạn đầy người. Chẳng thấy sĩ quan chỉ huy. Chỉ cần 1 hành động bất cẩn là tiêu tùng. Đặc biệt là không khí căng thẳng giữa quân cảnh TTM với lính tổng trừ bị từ chiến trường hỗn loạn chạy về. Một anh quân cảnh của chúng tôi đã bị chém ở bến tàu.

Các anh phi công không tắt máy, vẫn ngồi trên ghế lái, dục dịch muốn bay lên. Tôi cố trấn tĩnh đứng dưới sân bay dùng quân cảnh ngăn chận không cho dân chúng tràn lên phi cơ. Cho lính tổng trừ bị ưu tiên lên tàu trước. Đem tất cả các thương binh lên.Trật tự được giữ yên, với các quân cảnh súng đeo vai, bình tĩnh làm việc. Lại cho lệnh thủy quân lục chiến, nhẩy dù, biệt động quân, lính sư đoàn qua kho quân tiếp vụ lấy lương thực rồi trở lại bến tàu. Kho quân tiếp vụ được lệnh bỏ ngỏ cho lính lãnh hàng và tự do mặc sức khuân đi. Sau cùng tàu bay vẫn còn đủ chỗ cho tất cả phái đoàn tổng tham mưu trở về cùng với cả gia đình binh sĩ. Nhân dịp này tôi đưa được anh bạn cùng khóa là trung tá Nguyễn đức Chung từ Đà Nẵng chạy về. Anh lên máy bay cùng với cùng với tùy viên của tôi là đại úy Nguyễn thế Đỉnh.


Tôi ở lại dẫn lính tổng trừ bị ra bến tàu. Cũng chẳng phải can đảm gì. Cái thế phải như vậy. Nếu leo lên máy bay sớm là bị lính ba gai bắn chết tại chỗ cùng với mấy anh quân cảnh.

Khi trở về bộ chỉ huy 5 tiếp vận được biết ông trưởng đoàn đã cùng đại tá Liễu tỉnh trưởng Cam Ranh bay trực thăng vào Phan Rang. Đại tá Mai duy Thưởng cũng đã di tàn đường biển, cả bộ chỉ huy còn lại mình tôi với đại tá Trường.

Anh tài xế biệt phái lái xe cho tướngTrang hỏi thăm tôi bao giờ ông tướng trở lại. Anh còn đi tìm ông đại tá chỉ huy trưởng để nhận lệnh. Mặc dù lòng đang bấn loạn nhưng vẫn tỉnh táo nói rằng bây giờ tôi là người chỉ huy ở đây. Anh tài xế vui vẻ chờ lệnh. Báo cáo về Saigon cho trung tướng Khuyên,tham mưu trưởng liên quân. Trung tá chánh văn phòng Nguyễn đình Bá nửa đùa nửa thật nói là xếp chỉ thị anh Lộc có điều động được thì bây giờ làm chúa đảo kiêm Chỉ huy bộ chỉ huy tiếp vận, luôn cả thị xã Cam Ranh. Tôi ngao ngán nói rằng lệnh bổ nhiệm chậm trễ 3 năm. Bây giờ "moi" phải tìm đường chạy qua hải quân gặp ông đề đốc Hoàng cơ Minh. Tôi nói chuyện về tổng tham mưu hoàn toàn bạch văn chẳng có kiểu cách gì. Lúc đó đã khuya rồi. Chưa tắt máy, chợt có tiếng anh thượng sĩ truyền tin xen vào. Anh nói rằng, mấy hôm nay chúng em trên núi nghe tiếng đại tá nói chuyện với bộ tổng tham mưu. Bây giờ không còn ai liên lạc về Saigon, chúng em là siêu tần số truyền tin diện địa. Đại tá qua bên kia dùng hệ thống hải quân, xin cho lệnh tụi em về. Tôi hỏi là có xe từ trên núi xuống không. Anh ta nói là chúng em có phương tiện, 6 người truyền tin và 1 tiểu đội địa phương quân. Xin cho chúng em rút. Tôi đồng ý cho lệnh cả toán lấy tiêu lệnh triệt thoái ra mà thi hành. Phá hủy máy, giấy tờ và đặc lệnh truyền tin. Ra lệnh rồi mà tôi cũng cứ băn khoăn, nghĩ rằng mình hơi ẩu. Sau đó anh em chúng tôi còn lại đi 2 xe jeep chạy qua trung tâm huấn luyện hải quân ở phía bên kia bán đảo. Cho lệnh các anh tài xế và hộ tống tan hàng, không phải chờ đợi ai nữa. Từ bên ngoài hàng rào, các anh lính biệt phái mới quen biết hai ngày cùng giơ tay chào. Ngậm ngùi trông theo, thôi thì như vậy cũng đành. Đại tá chạy, nhưng ông nói rằng ông chạy. Anh em không phải thắc mắc đợi chờ. Quê em ở Ninh Hòa, mai này ông thầy có dịp trở lại ra quán vợ em mua nem. Chúng nó nói đùa mà như có nước mắt.

CĂN CỨ HẢI QUÂN

Phía bên bộ binh tại Cam Ranh rối loạn bao nhiêu thì trong căn cứ hải quân lại bình yên trật tự lạ lùng. Xem ra các chiến hạm khá nhiều mà không thấy dân chúng ồn ào chen lấn.

Chúng tôi ngồi uống nước buổi tối dưới hàng cây. Phía sân trước có 2 trực thăng đậu sẵn. Tôi ngồi bàn tán chuyện thời sự với chuẩn tướng Thân và trung tướng Thi bay từ Đà Nẵng về. Sẵn cơn tức giận pha lẫn đau thương lo sợ, tôi phê phán tổng thống Thiệu thẳng thừng. Ông Thi đồng ý nhưng ngồi yên lặng. Tướng Thân nguyên là tư lệnh sư đoàn 1 thời kỳ anh bạn tôi là trung đoàn trưởng Nguyễn thế Nhã tử trận, chúng tôi cùng đưa đám ở Mạc đỉnh Chi. Ông Thân rất cảm khái nói rằng các "toa" là đại tá còn dám nói thực lòng, tổng thống đánh đấm thế này thì chết cả anh em.

Giấc khuya cả 2 ông lên trực thăng bay vào Nam. Ông Minh gặp tôi nói: Sao không theo mấy ổng lên trực thăng. Thôi bây giờ tàu dưới bến, anh muốn đi chiếc nào thì đi. Tôi bắt tay ông Minh nghĩ rằng không biết bao giờ sẽ gặp lại. Sáng hôm sau, xuống tàu, được biết ông Diệp quang Thủy đã về trước rồi. Ông Minh di chuyển bằng tàu nhỏ. Trên mặt trận duyên hải, xem ra chỉ còn mình ông Minh bình tĩnh giải quyết công việc.

Tôi cùng sĩ quan bộ binh khác thuộc các đơn vị miền Trung di tản trên một chiến hạm mà ngày nay chẳng còn nhớ con tầu nào. Sĩ quan chúng tôi lẫn vào binh sĩ và dân chúng ngồi dưới sàn tầu. Buổi tối, tôi thảo điện văn nhờ tàu gửi cho tư lệnh hải quân chuyển qua trung tướng tham mưu trưởng liên quân. Ông hạm trưởng biết chuyện nể tình và cũng muốn giữ an ninh nên đưa 2 ông đại tá tổng tham mưu lên boong tàu nằm cho đỡ vất vả. Canh khuya, tôi chợt nghe thấy tiếng cười của cô nữ quân nhân hải quân.Nằm phía ngoài hiên phòng lái chịu cơn gió đại dương thân thể lạnh ngắt và đầu óc hết sức hoảng loạn cho một tương lai bất định. Mới hơn 5 năm trước bay đêm trên trời Cam Ranh, nhìn xuống quân cảng đèn sáng rực rỡ như thiên đường. Thương thuyền và chiến hạm đầy bến. Các cầu tàu nhộn nhịp lên hàng. Không thể tưởng tượng có ngày Mỹ bỏ Cam Ranh. Rồi đến VNCH cũng bỏ Cam Ranh.

Đoàn tàu từ giã bến cảng 1 thời nổi danh Đông Nam Á. Rồi tất cả rúc còi xuôi Nam. Tàu của tôi chở đầy dân tỵ nạn nên không được vào Vũng Tàu. Phải chạy ra Phú Quốc.

Ngay sau khi cặp bến lên tầu thì ngày hôm sau có tin cô thiếu úy xã hội của hải quân bị rớt xuống biển. Đó lại là con gái của vị tư lệnh hải quân đầu tiên. Đại tá Lê Quang Mỹ. Tôi vẫn nhớ tiếng cười của người nữ quân nhân hải quân giữa trùng dương mấy hôm trước. Trên đưởng chạy giặc mà sao vẫn nghe thấy tiếng cười của cô gái trong trẻo như pha lê.

Tôi nhớ đến các cháu gái nhà tôi. Ba đứa nhỏ tuổi hoa niên đang học Gia Long ở Sài Gòn. Rồi đây tương lai sẽ ra sao? Sau khi đến Phú Quốc vào đêm khuya, sáng hôm sau tôi lên máy bay về Saigon. Việc đầu tiên là hỏi thăm nhà của ông hạm trưởng để nhà tôi đem biếu hộp bánh với lời cảm ơn. Tôi cũng có ý tìm hiểu xem vụ tai nạn có trở ngại gì không. Rồi đến cuối tháng tư tôi thu xếp đem cả đơn vị xuống tầu quân vận ở bến Khánh Hội mà chạy theo hải quân. Từ ngày đó không gặp lại đại tá Trường tổng tham mưu. Không gặp lại đại tá Huy dù. Không gặp lại tướng Thủy. Các ông bạn một thời chinh chiến lặng lẽ ra đi. Cùng ở nước Mỹ mà ra đi lúc nào, ai có hay.

Nhưng sau cùng tôi có dịp tiễn đưa ông Diệp Quang Thủy lần cuối. Dù bên ngoài trông ông Thủy bình thản hiền lành nhưng thực ra những năm qua, trong phạm vi kín đáo ông vẫn sinh hoạt nhiệt thành với các chính đảng hướng về đại nghĩa quang phục quê hương. Chuyện này ngay anh em hải quân cũng ít người biết đến.

Ông Hoàng Cơ Minh một đời sôi nổi. Từ mặt trận duyên hải cho đến kỳ hạm đội ra khơi lần cuối. Tiếp theo là thời kháng chiến hay là chết. Sau cùng ông đã hy sinh tại Hạ Lào. Đề đốc Thủy kín đáo hơn, nhưng vẫn 1 lòng nghĩ về quê hương cho đến giây phút cuối cùng. Hai ông hải quân mỗi người đeo một sao. Một ông người Bắc, một ông Nam Kỳ. Cả 2 ông đều làm tôi nhớ lại Cam Ranh.

Trên sân khấu của đại hội hải quân ngày 1 tháng 12-2013 tôi có dịp kể chuyện Cam Ranh và ngỏ lời cảm ơn ông hạm trưởng con tầu tháng tư đã chở tôi về Phú Quốc mà thực sự tôi đã quên tên. Chỉ còn nhớ chuyện cô gái chết rất đau thương. Tối qua, tìm được điện thoại, ngay tại San Jose từ hơn 30 năm qua, anh em mới có dịp hàn huyên. Tôi mới được biết con tầu đầy kỷ niệm là HQ.500 của ông hạm trưởng trung tá Lê Quang Lập, quê Phan Rang, xứ sở của ông Thiệu. Danh hiệu hết sức tình cảm của HQ 500 lại là Dương vận hạm Cam Ranh. Sự tình cờ làm đậm đà cho bài hồi ký 38 năm sau.

Nhớ mãi ông Trường TTM, ông Huy Dù, ông Thủy hải quân và tôi trong chuyến bay buổi sáng đầu tháng tư, năm 75. Ông Trang ngồi trong phòng lái. Anh em mình ngồi một dãy bên nhau, tin tan hàng mất đất dồn dập, chẳng ai nhìn thấy tương lai. Tuy nhiên không ai biết rằng đến lượt Cam Ranh, chỉ còn đứng vững ba ngày rồi tan ra như lửa thiêu nước đá. Chẳng thấy bóng quân thù. Không một tiếng súng. Các binh đoàn cứ mờ dần như đang mộng du. Lúc đó chúng tôi 20 tuổi học trò, 20 tuổi lính, 40 tuổi đời. Gần 40 năm sau, chỉ còn mình tôi ngồi nhớ khung trời Cam Ranh mà chẳng biết bây giờ các ông ở đâu.

Giao Chỉ, San Jose

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.