Hôm nay,  

Hai Văn Hóa, Một Thiện Tâm

10/01/201400:00:00(Xem: 7231)
Lời Tòa Soạn: Cảm ứng với sư tàn phá và thiệt hại mà người dân Phi phải gánh chịu qua trận siêu bão Haiyan vào tháng 11 vừa qua, người Việt Tị Nạn khắp nơi, qua chiến dịch Vietnamese Refugees for Phillipines (VR4P) khởi xướng bởi cơ sở truyền hình SBTN, Asia production, phối hợp cùng các tổ chức Cộng Đồng Việt Nam, Hướng Đạo Việt Nam cùng nhiều tổ chức, đoàn thể thiện nguyện, bất vụ lợi đã liên tục vận động gây quỹ cứu trợ cho nạn nhân thiên tai Phi Luật Tân. Số tiền quyên góp, cho đến hôm nay lên đến 400 ngàn mỹ kim. Khoản tiền này đã được trao tận tay đến Tòa Đại Sứ Phi-Luật-Tân tại HTĐ, Hoa-Kỳ bởi Cộng Đồng VN vùng HTĐ, Maryland & Virgnia; tại Phi Luật Tân, được chuyển đến Hội Hồng Thập Tự Phillipines, Hội Habitat for Humanity Phillipines và đến các nạn nhân sống trong vùng bị tàn phá bởi cơn bải Haiyan.

Nghĩa cử “Đền Ơn Đáp Nghĩa” của tập thể người Việt tị nạn đối với đất nước Phi-Luật-Tân, nơi mở rộng vòng tay đón nhận và che chở cho thuyền nhân VN suốt 20 năm đã được ghi nhận bởi nhà báo Bill Applegate. Nhận thấy bài viết mang nhiều chi tiết có giá trị lịch sử tị nạn VN tại Phi Luật Tân, nên chúng tôi xin được trích lại và chuyển ngữ cống hiến đến quí vị độc giả. -- Trân trọng

*

Hiếu khách là bản chất của dân tộc Phi. Trọng nghĩa là giá trị đạo đức của người Việt. Cuộc lạc quyên rất rộng lượng lên đến 400 ngàn Mỹ Kim gần đây bởi cộng đồng người Việt đa số tại Nam Cali gửi đến nạn nhân của trận bão Haiyan tại Phi-Luật-Tân đã biểu dương mạnh mẽ đức tính này. Và các cộng đồng Việt Nam khác tại Hoa-Kỳ cũng còn đang tiếp tục nổ lực nhân đạo. Ngoài sự quyên góp từ Nam California, Hội Mỹ-Phi đã nhận được đóng góp của các tổ chức người Mỹ gốc Việt vùng Hoa-Thịnh-Đốn, New England, và Louisiana tổng cộng gần $300,000.00 chia xẻ đến các gia đình nạn nhân của trận siêu bão.

Hai nền văn hóa đã đập cùng một nhịp tim, từ duyên lành của lòng hiếu khách dang rộng vòng tay đón nhận người tị nạn nhiều năm trước đây, đưa đến sự đáp ứng sốt sắng cấp kỳ của người tị nạn đến quốc gia đầu tiên đã cứu vớt họ trên đường vượt thoát tìm tự do.
ti-nan-vo-thanh-nhan-resized
Trưởng HĐVN Võ Thành Nhân tại trại tạm cư Philippines ngày 4-1-2014.

Nước Phi và Người Tị Nạn Đông Dương

Vào những ngày cuối cùng của Tháng Tư 1975, khoảng 140 ngàn người Việt có liên hệ đến chính phủ miền Nam VN đã được di tản bằng đường hàng không và đường biển đến định cư tại Hoa-Kỳ. Người di tản bằng máy bay đã chuyển tiếp đến phi trường Clark, là phi trường quân sự Hoa-Kỳ tại Phi-Luật-Tân. Khoảng 30 ngàn người di tản bằng tàu Hải Quân VN đã tạm cư tại vịnh Subic.

Sau khi miền Nam VN bị Cộng Sản cưỡng chiếm, nước Phi đã chào đón và là nơi tạm dung cho 300 ngàn người tị nạn Đông Dương trong hơn 20 năm.

Nhiều người tị nạn là thuyền nhân đã vượt biển Đông tìm tự do bất kể cái chết vì đắm tàu, đói khát hay nhiều hiểm nguy khác, kể cả nạn hải tặc. Khoảng 200 ngàn thuyền nhân VN được xem là đã vùi thây trên biển, trong số hơn 760 ngàn người khác đến được bến bờ tự do trong vùng Đông Nam Á và nhiều quốc gia khác. Phải kể là khoảng 51 ngàn thuyền nhân đặt chân đến Phi được đón tiếp với nhiều thân thiện hơn các trại tị nạn khác.

Vào năm 1979, Cao Ủy Tị Nạn LHQ và Bộ Ngoại Giao Hoa-Kỳ đã kêu gọi sự hợp tác của các nước Đông Nam Á, cùng Hong Kong, Nhật và Đại Hàn để đáp ứng sự đón tiếp nhân đạo làn sóng tị nạn Đông Dương đã đưa đến kết quả định cư cho hơn 2 triệu bộ nhân & thuyền nhân Đông Dương tại Hoa-Kỳ và các nước thứ ba. Một phần của thỏa ước là việc thiết lập các trung tâm cứu xét hồ sơ xin tị nạn tại Nam Dương, Mã Lai, Thái Lan và Phi Luật Tân. Trong chính sách nhân đạo này, Ngoại Trưởng Phi, ông Carlos P. Romulo đã tiên phuông mở khu tạm cư đón nhận người tị Nạn Đông Dương vào đất Phi.

Nước Phi và Người Tị Nạn Thế Chiến Thứ II / Hậu Thế Chiến

Đất nước Phi đã có một lịch sử bảo bọc người bị bức hại từ Đức Quốc và Nga Sô nhiều năm trước khi có làn sóng tị nạn Đông Dương.

Vào thế chiến thứ II, Tổng Thống Phi Manuel Quezon đã cứu khoảng 1200 người Do Thái trốn chạy Đức Quốc Xã và cho họ tị nạn tại Phi. Sau Thế Chiến thứ II, vào năm 1949, dân tộc Phi đã đón nhận khoảng 6000 người Bạch Nga trốn chạy từ cuộc Các Mạng Cộng Sản tại Trung Hoa và cho họ định cư trên đảo Tubabao, gần tỉnh Guiuan, miền Đông Samar. Guiuan sau trận siêu bảo Haiyan đã bị quét sạch vào tháng 11 qua.

Trung Tâm Điều Hành Thủ Tục Tị Nạn, Morong, Bataan, (1980 – 1995)

Với sự tài trợ phần lớn từ LHQ và Chương Trình Tị Nạn Hoa-Kỳ, nước Phi đã thiết lập một trung tâm tạm cư, như là một thành phố nhỏ trên bán đảo Bataan, để dung chứa 18 ngàn người tị nạn. Từ lúc mở cửa vào tháng Giêng 1980 cho đến đầu thập niên 90, có khoảng 292 ngàn người tị nạn được hưởng những phương tiện như lớp sinh ngữ, hướng dẫn văn hóa và thích ứng cuộc sống mới tại các nước định cư như Hoa-Kỳ, Canada, Na Uy, Đan Mạch, Úc & Pháp. Nhiều người Phi cũng đã đến giúp trung tâm này trong các vai trò hành chánh, cán bộ xã hội, kể cả gần một ngàn giáo viên. Nhiều gia đình tị nạn, sau khi rời Bataan đi định cư đã viết thư thăm hỏi đến quí vị giáo viên, cán bộ xã hội, tri ân đến tình bạn, lòng nhân từ của người Phi.

Phi Luật Tân và Tự Do –Kỷ Niệm Gắn Bó Tình Người

Tác giả đã ghi lại nhiều kỷ niệm, hình ảnh khó quên trong việc đón nhận người Tị Nạn Việt Nam tại đất Phi.

Sau nhiều tuần lễ trôi giạt trên biển, chiếc thuyền tị nạn tơi tả chở khoảng 2 chục người tị nạn VN nằm kiệt sức trôi vào vùng biển Batangas, cách thủ đô Manila vài giờ lái xe. Những người tị nạn chỉ còn thở thoi thóp từ những ngày chịu đựng đói khát, thiêu đốt bởi ánh mặt trời nhiệt đới. Họ được ngư phủ Phi cứu vớt và đưa đến trung tâm chuyển tiếp tị nạn tại Manila…. Chỉ trừ một hài nhi vì quá thiếu nước, thiêu dinh dưỡng và không đủ sức để đưa đi Manila, dầu chỉ nửa ngày đường. Trong cuộc hành trình trên biển, mẹ của hài nhi chỉ giữ được mạng sống mong manh của con mình bằng cách pha sữa mẹ đã kiệt cạn với nước biển. Một gia đình người Phi đánh cá đã giữ nuôi đứa bé, và một trong những người đàn bà đã cho cháu bé bú sữa thay mẹ của cháu. Sau vài tháng, đứa bé được trao trả lại cho cha mẹ ruột sau khi cháu hồi phục và mạnh khỏe.

Một hình ảnh khó quên khác thể hiện sự cảm nhận sâu xa tinh thần bác ái của dân tộc Phi xảy ra tại bãi biển miền Nam nước Phi. Những người lính Phi sau khi cứu một tàu tị nạn VN đã cảm động, ứa lệ khi nhìn thấy một ông lão thuyền nhân nhảy vào bờ, hôn trên cát, nghẹn ngào kêu lên (bằng tiếng Việt) “tự do”!

Trại Tị Nạn Bataan tọa lạc không xa trục lộ nổi tiếng vào thời Đệ II Thế Chiến còn gọi là “Bataan Death March”, nơi mà hàng ngàn tù binh chiến tranh Phi và hàng trăm tù binh Hoa-Kỳ đã bỏ mình bởi chính sách ác độc của Quân Đội Nhật Hoàng vào năm 1942. Nghi lễ tưởng niệm “Battan Death March” được tổ chức hàng năm bởi Hướng Đạo Phi, Hoa Kỳ và Úc, cũng có thêm sự tham dự của HĐ Tị Nạn VN vào cuối thập niên 1980. Có một năm, HĐ VN, Lào và Cam Bốt tham dự dưới cơn nóng thiêu đốt, trên đoạn đường dài 70 dậm trong nhiều tuần lễ cho đến ngày 9 tháng Tư (Bataan Day). Điều đáng kể là những HĐS tị nạn không có giầy đi tuần hành, nhưng với tinh thần rất cao, chân mang dép, tay mang bình nước uống, hãnh diện trong áo thun “Tưởng Niệm Bataan Day” đi suốt trọn hành trình. Vào cuối đoạn đường, dưới tháp cao Mount Samat Cross tại đài tưởng niệm Bataan, Ông Đại Sứ Hoa-Kỳ tại Phi-Luật-Tân đã tuyên dương 100 em HĐS với huy chương đặc biệt “Bataan Tự Do”. Huy chương này đã mang một ý nghĩa đặc biệt đến với những người trẻ tị nạn, đã vượt qua đoạn đường gian lao, hiểm nguy tìm Tự Do. Đó cũng là kỷ niệm gắn bó sâu đậm, không thể nào quên cho các HĐS đến từ 6 quốc gia.

Nguồn: Trích dịch từ “Two Culture, One Heart”, trên trang mạng US-Phillipines Society, ngày 07 tháng 1, 2014 viết bởi Bill Applegate. (http://www.usphilippinessociety.org/2014/01/07/two-cultures-one-heart/).

Bản dịch Nguyên Thắng

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.