Hôm nay,  

Trang Đất Việt: Tỉnh Phú Yên

19/12/201300:00:00(Xem: 3456)
TỈNH PHÚ YÊN

Tỉnh Phú Yên, diện tích 5.060 km vuông. Dân số năm 2011 là 871.900 người, mật độ 172 người/ km vuông. Sắc dân: Kinh, Ê Đê, Ba Na, Chăm, Ba Na, Hoa... Tỉnh Phú Yên gồm có: Thành phố Tuy Hoà, thị xã Sông Cầu và 7 huyện: Tây Hoà, Tuy An, Đông Hoà, Phú Hoà, Đồng Xuân, Sơn Hoà, Sông Hinh. Tỉnh lỵ ở thành phố Tuy Hoà. Phú Yên thuộc miền trung Việt Nam, Phú Yên cách Hà Nội 1.160 km, cách thành phố Sài Gòn 561 km.

Tỉnh Phú Yên bắc giáp Bình Định, tây giáp Gia Lai và Đắk Lắk, nam giáp Khánh Hoà, đông giáp biển Đông (dài 189 km). Nhiệt độ trung bình 26 độ C. Các sông lớn chảy qua tỉnh: Sông Đà Rằng (sông Ba), sông Kỳ Lộ, sông Bàn Thạch. Phú Yên có 3 mặt là núi, phía Bắc là đèo Cù Mông, phía Nam là Đèo Cả, phía Tây là mạn sườn Đông của dãy Trường Sơn. Đồng lúa ở huyện Tuy Hòa (cả quận Hiếu Xương cũ) là đồng lúa lớn ở miền Trung. Phú Yên kinh tế đang phát triển, phố xá mở mang, người dân chân chỉ. Tỉnh có nhiều rừng núi, biển rộng, đất đai trù phú. Nông, lâm, thủy sản đều có dồi dào; lại có nhiều suối nước khoáng: Phú Sen, Triêm Đức, Trà Ô...

Giao thông: Đường hàng không có sân bay Đông Tác đi Hà Nội, Sài Gòn. Đường sắt Bắc-Nam qua tỉnh với ga chính là Tuy Hòa. Đường bộ, quốc lộ 1A xuyên qua tỉnh, chiều dài khoảng 180 km. Quốc lộ 25 đi Gia Lai; quốc lộ 29 nối huyện Đông Hà (nơi Vũng Rô) đến thị xã Buôn Hồ (Đắk Lắk).

Lịch sử tỉnh Phú Yên: Năm 1471, vua Lê Thánh Tông chinh phạt Chiêm Thành, khi tới núi Thạch Bi Sơn (núi Đá Bia, gần Đèo Cả), vua cho khắc bia vào hòn đá to vuông vức trên đỉnh núi cao 706m: "Dĩ nam Chiêm Thành, dĩ bắc Đại Việt" để phân định lãnh thổ Việt-Chiêm, đứng xa vài trăm dặm đều trông thấy Đá Bia rõ ràng. Tuy nhiên, sau đó vua Lê, chỉ sáp nhập vùng đất từ đèo Cù Mông (phía bắc Phú Yên) trở ra vào lãnh thổ Đại Việt. Sau khi vua cho ban sư, quân Chiêm trở lại vùng đất Phú Yên. Khi xưa, nơi này người Chiêm gọi tên là Ayaru. Năm 1578, chúa Nguyễn Hoàng, cử Lương Văn Chánh đánh chiếm thành Hồ của Chiêm Thành, ở xã Hoà Định, huyện Tuy Hòa. Từ đó, chúa Nguyễn chiêu tập và đưa lưu dân từ Thanh-Nghệ, Thuận-Quảng vào đây để khẩn hoang lập ấp và lập nghiệp. Vùng đất Aryaru đổi tên là Phú Yên. Năm 1976, Phú Yên và Khánh Hoà sáp nhập thành tỉnh Phú Khánh. Ngày 1-7-1989, tỉnh Phú Yên được tái lập lại cho đến ngày nay.

Nhớ công đức vua Lê Thánh Tông, dân Phú Yên đã lập đền thờ ngài ở thôn Long Uyên, huyện Tuy An, với câu đối:

"Giang san khai thác hà niên, phụ lão tương truyền Hồng Đức sự.
Trở đậu hình hương thử địa, thanh linh trường đối Thạch Bi cao".

Nghĩa: Khai sáng sông núi, bô lão thiết tha thời Hồng Đức,
Cung kính dâng hương, đất linh huyền diệu Đá Bia cao.

Người Phú Yên gọi "nẫu" là tiếng chỉ "người ta", người nơi khác nghe lạ lẫm. Nhưng đã quen thì thấy thân thiện.

Phú Yên có nhiều chùa: Chùa Đá Trắng (Từ Quang) ở huyện Tuy An, ở trên triền đồi toàn đá trắng, được vua ban sắc tứ năm 1889, có Đại hồng chung từ kinh đô Phú Xuân đưa vào năm 1915. Chùa Bảo Tịnh ở thành phố Tuy Hoà...

Đập Đồng Cam là công trình ngăn nước dòng sông Ba (sông Đà Rằng), khởi công năm 1923, do các kỹ sư Pháp là: Fargues, Machefaux và Carrez thực hiện dự án. Đập hoàn thành năm1932. Đập Đồng Cam dài 680m, bề mặt đập rộng 2m. Nước đập chảy vào 2 mương chính, mương phía nam chảy về quận Hiếu Xương (nam Tuy Hòa) dài 36 km, kinh phí 1.107.560 đồng, mương phía bắc chảy về quận Tuy Hoà dài 32 km, kinh phí 1.384.000 đồng. Xây đập kinh phí 663.000 đồng, cộng lại là 3.650.000 đồng tiền Đông Dương. Lễ khánh thành đập ngày 7-9-1932, với sự hiện diện Toàn quyền Đông Dương là Pierre Pasquier. Đập Đồng Cam ngoài việc cung cấp nước cho ruộng đồng, còn là thắng cảnh, nước đổ ào ào, bên bờ cỏ cây tươi tốt, phong cảnh nên thơ.


Văn hoá và Lễ hội: Phú Yên có thể loại hát bài chòi, đó là loại hát dân gian phổ biến ở Phú Yên. Hội thơ đêm nguyên tiêu (rằm tháng giêng) hàng năm tổ chức tại Sân tháp Nhạn ở thành phố Tuy Hòa, điều ấy nói lên dân Phú Yên thích thú về thơ phú.

Mộ và đền chí sĩ Lê Thành Phương ở huyện Tuy An, ông chiêu mộ Nghĩa quân chống Pháp năm 1885, chiếm được Phú Yên; sau đó, ông bị Pháp bắt hành quyết năm 1887; lễ hội được tổ chức tại đền vào ngày ông mất là 28 tháng Giêng âm lịch (20-2-1887-DL), ở xã An Hiệp, Tuy An. Mộ và đền Lương Văn Chánh, ông đã hướng dẫn dân chúng khai khẩn vùng đất Phú Yên, sau khi ông mất dân chúng tôn ông là tiền hiền tỉnh Phú Yên; lễ hội tổ chức tại đền ngày ông mất là 19-9 âm lịch (1611-DL), ở xã Hòa Trị, Tuy Hòa.

Vịnh Vũng Rô, ở phía nam thành phố Tuy Hoà 25 km, thuộc xã Hòa Xuân Nam, bên cạnh Đèo Cả. Vũng Rô có diện tích 16,4 km2 mặt nước. Được 3 dãy núi cao che chắn: Bắc có Đá Bia, tây có Đèo Cả và đông có Hòn Bà, nên vịnh luôn êm ả, tàu thuỷ có thể ra vào trọng tải 10.000 tấn. Vịnh có một số bãi đẹp: Bãi Chùa, Bãi Bàng, Bãi Lau, có thể tắm và bơi lội. Phía Nam vịnh có đảo Hòn Nưa cao 105 m, như một pháo đảo, trên đảo có ngọn đèn biển lớn. Gần Vũng Rô có hòn Vọng Phu bồng con, như đứng mòn mỏi trông chồng. Vũng Rô ngày nay đang xây dựng nhà máy lọc dầu.

Phong cảnh Phú Yên: Tháp Nhạn trên đỉnh Núi Nhạn trông cao chất ngất, núi ở phía tây nam thành phố Tuy Hòa. Chân núi phía nam là bờ sông Đà Rằng, phía tây kề quốc lộ 1 đi Bắc Nam. Tháp xây khoảng thế kỷ 11, tiêu biểu nghệ thuật kiến trúc người Chăm khi xưa. Tháp cao 25m, chân tháp mỗi cạnh rộng 11m. Dưới chân núi phía tây nam có tảng đá phẳng phiu, cao 5m, rộng 5m, khắc chữ Phạn cổ. Núi Nhạn, sông Đà là biểu tượng vùng đất thơ mộng Phú Yên. Ghềnh Đá Đĩa thuộc huyện Tuy An, những tảng đá cấu trúc lạ lẫm, hình ngũ giác xếp đều đặn trên một vùng rộng lớn. Nhìn từ xa, trông giống như chồng bát đĩa đồ sộ. Phía trước ghềnh là một hang sâu và rộng chứa cả trăm người. Cầu Đà Rằng có 21 nhịp dài tít tắp, trên dòng sông lưa thưa những chiếc buồm trắng nhấp nhô trông thơ mộng. Thắng cảnh và di tích Phú Yên còn có: Mũi Điện, Núi Đá Bia. Đầm Ô Loan. Vịnh Xuân Đài... Đặc sản Phú Yên có rất nhiều, đặc biệt sò huyết đầm Ô Loan, bắt sò tươi đem nướng, hương vị ngọt ngào, ăn vào bồi bổ máu huyết rất tốt.

Sông Đà, núi Nhạn Phú Yên
Biển, đồng rộng rãi ngẫm nghiền nhớ nhung


Cảm tác: Non nước Phú Yên

Phú yên, có Núi Nhạn, Sông Đà
Giáp giới phía nam, tỉnh Khánh Hoà
Tây cận núi rừng, rừng rậm rạp
Đông liền bờ biển, biển bao la
.
Phú Yên, kinh tế nhịp nhàng tăng
Dân dã cần cù, dẫu nhọc nhằn
Biển cả, lờn vờn tôm, cá, mực
Rừng sâu, chen chúc gỗ, tre măng
.
Đập Đồng Cam, ngăn nước Đà Rằng
Dẫn thủy nhập điền, nông phẩm tăng
Ngào ngạt lúa vàng, hương phản phất
Bồng bềnh buồm trắng, sóng lăn tăn
.
Phú Yên sông suối, chảy quanh co
Đồng ruộng thênh thang, đủ lúa ngô
Đình miếu chùa chiền, hình cổ kính
Ô Loan sò huyết, vị thơm tho
.
Vũng Rô bao bọc, bởi Hòn Bà
Gần núi Vọng Phu, đứng xót xa
Nhộn nhịp tàu bè, tung toé nước
Chập chờn đàn bướm, quẩn quanh hoa
.
Biển Đông dào dạt ở phương đông
Vòi vọi Đá Bia thăm thẳm trông
Núi Nhạn, Sông Đà, nhung nhớ dạ
Phú Yên non nước, vấn vương lòng


Nguyễn Lộc Yên

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.