Hôm nay,  

Nhân & Quả

22/02/201400:00:00(Xem: 8736)
ninh-thuan-vz-3
Nguyễn Ninh Thuận

- Alo! Tâm đã sửa soạn xong chưa, Kim đang trên đường lái xe đến đón Tâm tham dự một buổi diễn thuyết rất bổ ích cho cuộc sống chúng mình…

- Tâm đã sẵn sàng chờ bạn đến đón đây!

Thế rồi chúng tôi vui vẻ đến hội trường để tham dự buổi diễn thuyết. Kim là thành viên cũ của hội nên rành rẽ đường đi nước bước, trong khi Tâm e dè đi theo bạn trong bỡ ngỡ thăm dò… Bước vào phòng ăn thì rất đông các thành viên với nét mặt vui tươi đang ngồi trên những chiếc ghế trước những chiếc bàn vuông đầy ắp thức ăn hấp dẫn… Sau khi Kim giới thiệu tôi với các bạn và hướng dẫn tôi ngồi cạnh một chị tôi chưa quen, nghe đâu chị là một Nha Sĩ, tuy vậy chị ấy vồn vã bắt chuyện làm tôi cảm thấy gần gũi thân mật hơn… Kim đi lấy thức ăn cho tôi dùng bữa tối với không khí vui nhộn đầy tiếng thăm hỏi nhau ân tình… Hơn 1 giờ sau có tiếng mời mọi người vào hội trường làm lễ. Trái hẵn với không khí ở phòng ăn đầy tiếng nói cười lao xao…, ở trong phòng hội im phăng phắt đến nỗi một con ruồi bay qua cũng nghe tiếng vo ve của nó! Buổi dự lễ đầu tiên trong không khí trang nghiêm gây cho tôi một ấn tượng rất tốt cho hội, khác với những buổi lễ mà tôi từng tham dự trong các hội đoàn đầy tiếng lao xao chuyện trò to nhỏ…

Moi người thành kính đứng lên cầu nguyện, sau đó BTC giới thiệu diễn giả lên thuyết trình. Tiếng nói rõ ràng của một vị mặc bộ “ Vét” đen như lan rộng khắp phòng trong khi mọi người lắng nghe. Tôi thích thú uống từng lời chia sẻ của ông vào người như người đi trong sa mạc gặp nước được thỏa thích trong cơn khát nước mong đợi: “ Hôm nay tôi xin nói về đề tài NHẬN & QUẢ qua câu chuyện mà chắc một số người đã nghe và đọc là chuyện “Bài học ngàn vàng“… Ngày xửa ngày xưa có một ông lão đi khắp nơi và nhiều nước rao bán rằng: "Có một bài học đáng giá nghìn vàng", ai bỏ ra một ngàn lượng vàng thì tôi sẽ bán cho cái đạo lý đó... Nhiều người nghe thấy lạ thì tò mò đi theo dò hỏi, tuy nhiên gạn hỏi thế nào ông lão cũng chỉ nói: Ai trả đủ một ngàn lượng vàng thì kẻ đó mới được biết bí mật của bài học . Bởi vậy nhiều người cho là lão bị điên vì họ nghĩ chẳng có bài học nào đắt đến như vậy!. Vì thời đó vài lượng vàng đã quí mà đây giá cả ngàn vàng thì rất quí chỉ có vua chúa mới có thôi!

Ngày ngày ông lão cần mẫn đi như một người bán rong và rồi tiếng rao của lão cũng đến tai nhà vua. Vua ngạc nhiên vội cho cận thần theo dõi và được mật báo rằng ông lão có hành tung như một vị hiền triết - cốt cách khoan thai, đời sống chuẩn mực, đàng hoàng, lời ăn tiếng nói không thừa một chữ, biểu hiện của người siêu phàm thoát tục …

Nhà vua cả mừng bèn giả dạng thường dân đến gặp và hỏi ông lão rằng bài học gì mà lão rao bán đến một nghìn lượng vàng? Ông lão nói: Đây là bài học mà có thể làm cho người ta thoát khỏi những đau khổ của cuộc đời, vượt qua khỏi những lầm lỗi và có thể đạt tới tột đỉnh vinh quang... Nghe xong, nhà vua vẫn còn bán tín bán nghi nên bỏ về, nhưng lòng cứ ray rứt bởi sức hấp dẫn của ý nghĩa bí ẩn của bài học đáng giá ngàn vàng ấy. Rồi nhà vua quyết định mở ngân khố lấy ra một nghìn lượng vàng rồi hạ chỉ mời ông lão vào hoàng cung. Vua nói: Ta chấp nhận hoặc bị lừa mất một nghìn lượng vàng hoặc thật sự sẽ được một bài học vô giá.… Nói đoạn, nhà vua truyền cho quan Thủ ngân chất đủ một ngàn lượng vàng trước mặt ông lão. Nhận đủ số vàng, ông lão cung kính dâng lên đức vua một vuông lụa viết vỏn vẹn 10 chữ: "Phàm làm việc gì, suy nghĩ đến hậu quả của nó". Đọc xong 10 chữ ấy, đức vua có cảm giác như mình đã bị lừa, nhưng lời vua nặng tựa Thái Sơn, nên không kịp rút lại, đành “ngậm bồ hòn làm ngọt”. Còn ông lão thì lặng lẽ chất vàng vào túi vải, cung kính vái tạ vua rồi rời khỏi kinh thành.

Từ đó nhà vua cứ bị ám ảnh bởi 10 chữ: "Phàm làm việc gì phải suy nghĩ đến hậu quả" và nếu nhà vua chỉ mua câu nói này với một lượng vàng thì chắc hẵng Người đã quên bài học này từ lâu. Nhưng đằng này, mỗi chữ trị giá tới 100 lượng vàng. Nghĩ vậy, đức vua vừa tức giận, vừa tiếc công quỹ và câu nói nặng ngàn vàng đó đã nhập vào tâm nhà vua tự bao giờ để rồi mỗi khi nhà vua làm việc gì đều suy nghĩ đến hậu quả của nó.

Từ khi đức vua mua “bài học ngàn vàng” thì cả triều đình nhận ra nhà vua thay đổi từng ngày. Đức vua trầm tĩnh hơn, khôn ngoan hơn, công tư phân minh, phân định mọi việc sáng suốt, ngồi trên ngai vàng trong hoàng cung mà đoán định tình hình ở biên cương như thần... Đất nước từ đó bắt đầu cường thịnh, thần dân thì mừng vui vì đời sống được an lành, thịnh vượng. Nhưng chính nhà vua lại không nhận ra điều đó, ông chỉ bị ám ảnh bởi bài học ngàn vàng và Người luôn tự nhủ: Phàm làm việc gì cũng phải suy nghĩ đến hậu quả của nó! Nhờ vậy mà nhân cách nhà vua được tu chỉnh, đức vua không còn là một vị Vua tầm thường kế vị ngai vàng, thích hưởng thụ như ngày xưa mà giờ đây làm việc gì Người cũng suy nghĩ cho dân, cho nước.

Vị vua nước láng giềng hùng mạnh ngạc nhiên thấy vương quốc nhỏ bé cạnh mình sau một thời gian đã trở nên phát triển nên tìm cách thôn tính. Bắt được vua và truy cứu cho ra lẽ và hứa sẽ tha tội nếu biết rõ sự việc… Vua đó đưa ra “bài học ngàn vàng” với tấm vải viết "Phàm làm việc gì phải suy nghĩ đến hậu quả". Suy nghĩ giây lát, vua ra lệnh lui quân vì “Quân bất hí ngôn ” Ra về nhà Vua học theo bài học ngàn vàng nên đất nước càng ngày càng thịnh vượng, dân tình an vui hạnh phúc…”

Sau buổi nghe diễn thuyết chúng tôi ra về trong lòng thấy thới thới và mỗi người mang một ý nghĩ của cuộc sống theo những lời giảng… Tâm phá tan không khí yên lặng với Kim qua lời giảng của thuyết trình viên…

- Qua bài học này chúng ta rút ra bài học Nhân Quả vì “Phàm làm việc gì phải nghĩ đến hậu quả của nó! ” Trồng cây ngọt thì hái được trái lành. Ta trồng cây cam ngọt chẳng hạn, rồi từ đó lấy hạt tốt ra gieo trồng lại theo cấp số nhân thì xã hội sẽ gặt hái vô số cam để góp phần tốt cho sức khỏe con người. Với Tham Sân Si, con người rơi vào vòng tục lụy không lối thoát. Lòng tham vô đáy, tham tiền tham của, tham tình, thanh danh, tham quyền, tham lợi…vì lòng tham này chúng ta làm bất cứ gì để đạt được mục đích với lòng sân hận, trả thù, có khi là gây oán thù, mờ mắt, tội lỗi không lường được hậu quả trước mắt trong si mê lầm lỗi với ý niệm cho ta là phải, việc làm ta đúng không nghe theo lời khuyên chính trực…

- Kim đồng ý với Tâm thông qua Lục căn và Tứ Diệu Đế của nhà Phật !

- Cho Tâm nêu thêm ý tưởng mới xâm nhập qua bài giảng là Tam Đức nữa nhé! Bi, Trí, Dũng của nhà Phật dạy cho chúng ta làm việc gì cũng phải suy xét cẩn thận & lường trước hậu quả của nó! Với lòng Từ Bi, có Trí óc suy xét, không bị lu mờ bởi nhục dục, cái Dũng đưa tới yếu tố quyết định tự quyết không bị mua chuộc bằng tình tiền, địa vị danh vọng… Dũng làm cho trí ta sáng suốt, cân nhắc phải trái, hơn trái hậu quả… Muốn vậy chúng ta phải tu tập, làm công quả, công phu… Bi Trí Dũng khiến chúng ta vượt qua Tham Sân Si. Việc gì chúng ta làm càng nhiều ảnh hưởng nhiều người thì công đức càng lớn…

- Không những thế, dù làm một việc xem ra nhỏ nhặt như đi đường thấy cây đinh, chướng ngại có thể làm chết người, hay một mảnh chai, chúng ta nhặt lên, gói nó cẩn thận càng tốt vất vào thùng rác thì tránh cho người đạp phải sẽ bị thương tích thương tật…

- Tóm lại bình an là căn bản của hạnh phúc!

- Hôm nay chúng mình đã học được những bài học thật bổ ích và biết được biểu tượng Đạo Phật là Bông Sen vì Bông Sen mọc trong bùn lầy mà không bị hoen ố “ gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn ”. Ở Bông Sen Nhân & Quả đầy đủ trong bông hoa tinh khiết này!

- Mãi nói chuyện mà đã đến nhà Tâm rồi! Cám ơn Kim tối nay đã đưa Tâm đến dự một đề tài thật hữu ích cho bản thân Tâm và rồi Tâm sẽ chia sẻ với bạn bè thân hữu mình. Tuần tới Tâm sẽ tự lái xe đến nghe những đề tài khác, vì bước đầu Tâm cần Kim giới thiệu, nhưng rồi phải tự mình lo cho mình chứ! Ai rồi cũng phải có sinh hoạt cho riêng gia đình mình, nói nôm na, Kim giúp cho Tâm con trâu và chỉ cho thửa ruộng phải cày cấy, Tâm phải tìm dụng cụ cái cày cái bừa… để đem sức lao động làm cho đám ruộng mình phát triển màu mỡ chớ! Cũng như muốn cho kiến thức mình phát triển về mọi nhận thức ở đời thì phải học hỏi, nghe ngóng, thu lượm điều hay lẻ phải với câu “nhân bất thập toàn”… Một lần nữa cám ơn Kim rất nhiều, chúng mình chia tay nhau nhé! Chúc bạn có nhiều mộng đẹp trong đêm nay…

Nguyễn Ninh Thuận

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.