Hôm nay,  

Tháng Ba Tìm Về Tử Lộ

15/03/201400:00:00(Xem: 6583)
Tháng Ba lại về tôi bỗng nhớ Bài thơ tháng Ba của trung úy Nguyễn Văn Kỳ Sơn, một sĩ quan CTCT đóng tại thượng nguồn sông Đăkpla, Kontum. Anh là nhân chứng cuối cùng và là người lính đồng hành với cái gọi là Tây nguyên tháo chạy, khởi đi từ lúc bỏ ngỏ Kontum, dồn về Pleiku rồi theo đoàn người vừa lính vừa dân (dân ít lính nhiều) dồn cục trên một con đường độc đạo để tìm về sinh lộ. Lòng dạ của họ ra sao, hãy nghe tâm tình của những người lính trẻ,

Lệnh bỏ quân đoàn thật nhẫn tâm
Quân dân ứa lệ máu tuôn dầm
Cùng nhau nương bước tìm sinh lộ
Đường trơn đẫm máu hướng về Nam…

Sinh lộ được các nhà quân sự Vùng 2 trong cơn hoảng loạn dựa theo bản đồ đã chọn con đường liên tỉnh mang số 7B băng qua rừng già nối liền cao nguyên với dẻo đất Sông Cầu vốn là anh em với đường 9 nam Lào từng bị lãng quên trong thời chiến bỗng trở thành tử lộ và là mồ chôn của bao oan hồn sau ngày 13 tháng 3. Cứ như nhà thơ ghi lại,

Tháng Ba…Dân lính thây như rạ
Con lộ 7B oán thấu trời
mười đi, hai tới, ba èo uột
Vua nỡ bỏ quân…khóc hay cười!!

Vua nỡ bỏ quân, khóc hay cười? Chuyện khóc hay cười khởi đi từ một cú điện thoại của Vua tức Tư lệnh tối cao Nguyễn Văn Thiệu từ Nha Trang gọi cho Thiếu tuớng Nguyễn Văn Phú, tư lệnh quân đoàn 2 trước đó ít ngày. Sau khi mất Ban mê thuột, đã có lời đồn thổi người ta sẽ bỏ Pleiku-Kontum như một phương án di tản chiến thuật, cho nên khi đã quyết định TT Thiệu cùng đại tướng Cao Văn Viên và bộ tham mưu cấp cao ra Nha Trang xem xét tình hình và ra lệnh trực tiếp. Có điều lạ là không có tướng Phú tham gia, dù là địa bàn bỏ ngỏ sẽ là vùng đất của ông. Chuyện này để các nhà viết sử tìm hiểu.

Theo một nhân chứng gần gũi với Bộ tư lệnh quân đoàn thì có nhân vật lúc đó đang ở văn phòng Tướng Phú khi ông này nhận điện thoại, sau này tiết lộ với đàn em thân cận khi qua Mỹ mà chẳng cần úp mở là vị tướng tư lệnh sư đoàn 6 không quân (bản doanh đóng tại Pleiku).

Ông cho biết là không hiểu qua đường dây Tông Tông nói gì, nhưng về phần tướng Phú thì chỉ thấy, “dạ, dạ, dạ…” tuyệt nhiên không có ý kiến hoặc ngôn từ hồi đáp. Cuộc điện đàm ngắn gọn, ngay sau đó bằng một động thái không được bình tĩnh ông cho họp các tư lệnh và chỉ huy cốt cán thông báo lệnh của Tổng thống là di tản ngay và bỏ ngỏ vùng 2.

Cũng cần nói tướng Phú vốn có tiền sử là một người trung thực, ít nói, từng chiến đấu trong một đơn vị Dù của Pháp, tuyệt đối trung thành theo lệnh thượng cấp, nhưng cá nhân thì không sợ chết và chẳng bao giờ biết chữ đầu hàng. Cũng từ đàn em của ông, cũng là người bạn của tôi đã kể một giai thoại khi ông mới về nhậm chức Tư lệnh vùng 2, như thấy trọng trách mình quá nặng, ông đã thân tình cởi mở với thuộc cấp, đa phần là sĩ quan trẻ (cấp tá) trong bộ tham mưu của ông, anh ít được học hành nhiều/các em được đào tạo cao hơn anh/cố giúp anh hoàn thành nhiệm vụ tổng thống giao cho anh. Nghe xong tôi ngưỡng mộ ông từ ngày ấy và thầm nghĩ ông được cất nhắc và tiến nhanh trong binh nghiệp chính vì các tố chất này.

Cho nên những người hiểu ông cũng chẳng cần thắc mắc tại sao chỉ có những tiếng dạ ngắn gọn mà lẽ ra là tư lệnh ông hiểu phải có thời gian chuẩn bị, không thể một sớm một chiều đưa cả một đại đơn vị cả chục ngàn quân chưa kể dân tình nhớ Tết Mậu Thân cũng sẽ ăn theo trong cuộc di tản. Chính vì sự chấp hành một chiều theo lối quân giai đã đưa ông vào những sai lầm chiến thuật khi vội vàng chọn con lộ 7 để rút quân.

Văn Tiến Dũng cũng ngỡ ngàng vì không ngờ tướng Phú rút nhanh và càng khó hiểu sao người đối địch lại chọn con số 7B vùng tử địa chưa được khai thông thay vì con số 9, quốc lộ huyết mạch nối liền cao nguyên với biển? Có giả thuyết đi qua đường 9, sẽ là đi vào cửa tử vì lực lượng của Cộng sản đang đón ta ở đây, nên giải pháp băng rừng tạo yếu tố bất ngờ vẫn là phương án ít đổ máu.

Chuyện không bàn ở đây, chỉ biết kết quả bi thảm do bế tắc về tiếp vận, xăng nhớt, nước uống, cầu gẫy, đường xấu, xe cơ giới, vận tải ách tắc, cũng lại bất ngờ là quân cộng sản pháo kích như mưa, quân dân tản lạc mạnh ai nấy chạy, cho nên ai có xe Honda và đủ nuớc thì lại an toàn đến được đất hồi sinh. Chuyện kể có một anh lính BĐQ ỷ mình có thể tìm được nguồn nước trên đường đi đã bán bi-đông nước để lấy một cây vàng cho một thương gia khi ông này năn nỉ. Anh đã chết khát trước khi đoàn người về được Tuy hòa.

Nay thì mọi sự đã thuộc về lịch sử, nhưng nỗi ray rứt của người sĩ quan trẻ vẫn còn vẳng vọng đâu đây,

Ngày 13 tháng 3 ta không quên
Máu xương của lính biết ai đền
Hoang mồ rải rác trên cùng khắp
Tử sĩ hồn oan không tuổi tên…

(*) Cũng cần nói thêm, Tướng Nguyễn Văn Phú đã ở lại Sài-gòn. Sáng 30-4 trước giờ Dương Văn Minh đầu hàng, ông đã uống thuốc độc cực mạnh để tự sát -- một quyết định y hệt như cụ Phan Thanh Giản khi không giữ được thành.

Đỗ Xuân Tê

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.