Hôm nay,  

Tháng Ba Tìm Về Tử Lộ

15/03/201400:00:00(Xem: 6582)
Tháng Ba lại về tôi bỗng nhớ Bài thơ tháng Ba của trung úy Nguyễn Văn Kỳ Sơn, một sĩ quan CTCT đóng tại thượng nguồn sông Đăkpla, Kontum. Anh là nhân chứng cuối cùng và là người lính đồng hành với cái gọi là Tây nguyên tháo chạy, khởi đi từ lúc bỏ ngỏ Kontum, dồn về Pleiku rồi theo đoàn người vừa lính vừa dân (dân ít lính nhiều) dồn cục trên một con đường độc đạo để tìm về sinh lộ. Lòng dạ của họ ra sao, hãy nghe tâm tình của những người lính trẻ,

Lệnh bỏ quân đoàn thật nhẫn tâm
Quân dân ứa lệ máu tuôn dầm
Cùng nhau nương bước tìm sinh lộ
Đường trơn đẫm máu hướng về Nam…

Sinh lộ được các nhà quân sự Vùng 2 trong cơn hoảng loạn dựa theo bản đồ đã chọn con đường liên tỉnh mang số 7B băng qua rừng già nối liền cao nguyên với dẻo đất Sông Cầu vốn là anh em với đường 9 nam Lào từng bị lãng quên trong thời chiến bỗng trở thành tử lộ và là mồ chôn của bao oan hồn sau ngày 13 tháng 3. Cứ như nhà thơ ghi lại,

Tháng Ba…Dân lính thây như rạ
Con lộ 7B oán thấu trời
mười đi, hai tới, ba èo uột
Vua nỡ bỏ quân…khóc hay cười!!

Vua nỡ bỏ quân, khóc hay cười? Chuyện khóc hay cười khởi đi từ một cú điện thoại của Vua tức Tư lệnh tối cao Nguyễn Văn Thiệu từ Nha Trang gọi cho Thiếu tuớng Nguyễn Văn Phú, tư lệnh quân đoàn 2 trước đó ít ngày. Sau khi mất Ban mê thuột, đã có lời đồn thổi người ta sẽ bỏ Pleiku-Kontum như một phương án di tản chiến thuật, cho nên khi đã quyết định TT Thiệu cùng đại tướng Cao Văn Viên và bộ tham mưu cấp cao ra Nha Trang xem xét tình hình và ra lệnh trực tiếp. Có điều lạ là không có tướng Phú tham gia, dù là địa bàn bỏ ngỏ sẽ là vùng đất của ông. Chuyện này để các nhà viết sử tìm hiểu.

Theo một nhân chứng gần gũi với Bộ tư lệnh quân đoàn thì có nhân vật lúc đó đang ở văn phòng Tướng Phú khi ông này nhận điện thoại, sau này tiết lộ với đàn em thân cận khi qua Mỹ mà chẳng cần úp mở là vị tướng tư lệnh sư đoàn 6 không quân (bản doanh đóng tại Pleiku).

Ông cho biết là không hiểu qua đường dây Tông Tông nói gì, nhưng về phần tướng Phú thì chỉ thấy, “dạ, dạ, dạ…” tuyệt nhiên không có ý kiến hoặc ngôn từ hồi đáp. Cuộc điện đàm ngắn gọn, ngay sau đó bằng một động thái không được bình tĩnh ông cho họp các tư lệnh và chỉ huy cốt cán thông báo lệnh của Tổng thống là di tản ngay và bỏ ngỏ vùng 2.

Cũng cần nói tướng Phú vốn có tiền sử là một người trung thực, ít nói, từng chiến đấu trong một đơn vị Dù của Pháp, tuyệt đối trung thành theo lệnh thượng cấp, nhưng cá nhân thì không sợ chết và chẳng bao giờ biết chữ đầu hàng. Cũng từ đàn em của ông, cũng là người bạn của tôi đã kể một giai thoại khi ông mới về nhậm chức Tư lệnh vùng 2, như thấy trọng trách mình quá nặng, ông đã thân tình cởi mở với thuộc cấp, đa phần là sĩ quan trẻ (cấp tá) trong bộ tham mưu của ông, anh ít được học hành nhiều/các em được đào tạo cao hơn anh/cố giúp anh hoàn thành nhiệm vụ tổng thống giao cho anh. Nghe xong tôi ngưỡng mộ ông từ ngày ấy và thầm nghĩ ông được cất nhắc và tiến nhanh trong binh nghiệp chính vì các tố chất này.

Cho nên những người hiểu ông cũng chẳng cần thắc mắc tại sao chỉ có những tiếng dạ ngắn gọn mà lẽ ra là tư lệnh ông hiểu phải có thời gian chuẩn bị, không thể một sớm một chiều đưa cả một đại đơn vị cả chục ngàn quân chưa kể dân tình nhớ Tết Mậu Thân cũng sẽ ăn theo trong cuộc di tản. Chính vì sự chấp hành một chiều theo lối quân giai đã đưa ông vào những sai lầm chiến thuật khi vội vàng chọn con lộ 7 để rút quân.

Văn Tiến Dũng cũng ngỡ ngàng vì không ngờ tướng Phú rút nhanh và càng khó hiểu sao người đối địch lại chọn con số 7B vùng tử địa chưa được khai thông thay vì con số 9, quốc lộ huyết mạch nối liền cao nguyên với biển? Có giả thuyết đi qua đường 9, sẽ là đi vào cửa tử vì lực lượng của Cộng sản đang đón ta ở đây, nên giải pháp băng rừng tạo yếu tố bất ngờ vẫn là phương án ít đổ máu.

Chuyện không bàn ở đây, chỉ biết kết quả bi thảm do bế tắc về tiếp vận, xăng nhớt, nước uống, cầu gẫy, đường xấu, xe cơ giới, vận tải ách tắc, cũng lại bất ngờ là quân cộng sản pháo kích như mưa, quân dân tản lạc mạnh ai nấy chạy, cho nên ai có xe Honda và đủ nuớc thì lại an toàn đến được đất hồi sinh. Chuyện kể có một anh lính BĐQ ỷ mình có thể tìm được nguồn nước trên đường đi đã bán bi-đông nước để lấy một cây vàng cho một thương gia khi ông này năn nỉ. Anh đã chết khát trước khi đoàn người về được Tuy hòa.

Nay thì mọi sự đã thuộc về lịch sử, nhưng nỗi ray rứt của người sĩ quan trẻ vẫn còn vẳng vọng đâu đây,

Ngày 13 tháng 3 ta không quên
Máu xương của lính biết ai đền
Hoang mồ rải rác trên cùng khắp
Tử sĩ hồn oan không tuổi tên…

(*) Cũng cần nói thêm, Tướng Nguyễn Văn Phú đã ở lại Sài-gòn. Sáng 30-4 trước giờ Dương Văn Minh đầu hàng, ông đã uống thuốc độc cực mạnh để tự sát -- một quyết định y hệt như cụ Phan Thanh Giản khi không giữ được thành.

Đỗ Xuân Tê

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.