Hôm nay,  

Xã Hội Dân Sự Ở Nông Thôn VN

01/04/201400:00:00(Xem: 5427)

Trong khoảng mười thế kỷ tự chủ, cha ông chúng ta đã xây dựng được một xã hội tương đối phát triển, ổn định và hài hòa. Nhất là tại các vùng nông thôn, thì các thuần phong mỹ tục vẫn được củng cố, duy trì qua bao nhiêu thế hệ. Kể cả sau khi bị mất chủ quyền vào tay người Pháp vào giữa thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX, thì cái lề thói sinh họat truyền thống tốt đẹp trong mỗi gia đình, cũng như ngoài xã hội Việt nam vẫn không bị phá hoại, mai một hư hại đi là bao nhiêu.

Từ ngàn xưa, cha ông chúng ta vẫn thường nêu cao khẩu hiệu “Phép vua thua lệ làng”, ngay dưới thời quân chủ phong kiến mà quyền hành của nhà vua được coi như tuyệt đối (Absolute monarchy).Vào thời đó, tại các miền nông thôn đã có chế độ “Xã thôn tự trị” (Community Autonomy), tức là tại các làng xã, chính quyền và dân chúng địa phương được dành nhiều quyền tự trị rông rãi, chứ không bị quá ràng buộc, lệ thuộc vào chính quyền ở trung ương tại kinh đô do nhà vua điều khiển. Mỗi làng xã đều có ngân sách riêng để tự mình lo trang trải các chi tiêu của địa phương, và như vậy là các hương chức có quyền thâu thuế để nộp vào ngân sách của làng. Dĩ nhiên là họ cũng có trách nhiệm thâu thuế cho chính quyền cấp tỉnh,cũng như cấp trung ương. Tức là cũng có 3 cấp chính quyền tương tự với ở các quốc gia văn minh ngày nay trên thế giới.

Phân tích chi tiết hơn về sinh họat xã hội tại nông thôn từ hồi trước 1945, ta thấy người dân phần đông được sống thoải mái trong bầu không khí yêu thương gắn bó của dòng tộc và tình liên đới tương trợ lẫn nhau của xóm giềng. Cái nếp sống thanh bình thân ái đó mà được duy trì lâu ngày, đó là nhờ nơi đức độ và uy tín của các bậc tôn trưởng là những vị lãnh đạo tinh thần tại hạ tầng cơ sở nông thôn trong xã hội cổ truyền Việt nam từ ngàn xưa, mà ngay dưới thời Pháp thuộc thì cũng vẫn còn giữ vững được. Các vị tôn trưởng này gồm một số quan chức đã hồi hưu, các vị đồ nho vốn là thầy dậy học cho các sĩ tử ở địa phương, các vị tu sĩ Phật giáo, Công giáo, và một số những nhân sĩ “xuất thân từ những dòng họ vốn có danh giá và được trọng vọng tại địa phương,” v.v…Đây chính là những thành phần cốt lõi, rường cột của cộng đồng địa phương tại mỗi xóm làng ở nông thôn nước ta từ ngàn xưa. Chính cái tập thể giới lãnh đạo này từ nhiều thế hệ đã duy trì được nếp sống an vui, trật tự, điều hòa và nhân ái tại hạ tầng cơ sở nông thôn của chúng ta.

Và nhờ các vị tôn trưởng này mà Xã hội Dân sự ở nông thôn đã giữ vững được vị thế và vai trò quan trọng của mình trong cộng đồng dân tộc. Như ta đã biết, khái niệm về Xã hội Dân sự (XHDS) mới chỉ được phổ biến thông dụng trong mấy chục năm gầy đây, nhất là sau khi chế độ toàn trị cộng sản bị sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô từ năm 1989 trở đi.Đó là một khu vực cùng tồn tại song hành với khu vực Nhà nước và khu vực Thị trường, để tạo thành cái Không gian Xã hội (The Social Space = The State + The Marketplace + The Civil Society). Và theo định nghĩa như vậy, thì ngay trong xã hội cổ truyền ở nước ta hay tại Trung hoa, trước khi đảng cộng sản nắm trọn quyền hành để thiết lập nên một chế độ độc tài chuyên chế toàn trị (totalitarian dictatorship) nhằm chiếm lãnh độc quyền không những về chính trị, kinh tế, xã hội, mà còn cả về mặt văn hóa, tinh thần và tâm linh nữa, XHDS vẫn tồn tại trong sinh họat thường ngày của các cư dân tại mỗi địa phương. Tức là từ khi đảng cộng sản chiếm được trọn bộ quyền hành rồi, thì họ đã chi phối không những bộ máy Nhà nước, guồng máy kinh tế, mà còn khống chế, lũng đoạn toàn bộ khu vực XHDS nữa. Ta sẽ phân tích chi tiết khía cạnh này trong phần tiếp theo sau đây, khi so sánh tình hình ở nông thôn ở hai giai đoạn trước và sau năm 1945 kể từ khi đảng cộng sản lên nắm chính quyền.

1/ Như ta đã biết, trước khi người Pháp xâm chiếm nước ta, thì ngay đến giữa thế kỷ XIX, nền kinh tế Việt nam hoàn toàn là nền kinh tế nông nghiệp và tuyệt đại đa số nhân dân ta đều sinh sống tại nông thôn. Thời đó hầu như chưa có kỹ nghệ, mà chỉ có tiểu thủ công nghiệp, cũng như buôn bán nhỏ lồng trong đại bộ phận là sản xuất nông nghiệp với quy mô nhỏ, kỹ thuật thô sơ và năng xuất còn rất thấp. Đa số người dân suốt đời quanh quẩn trong phạm vi làng quê được bao bọc bằng lũy tre xanh vây xung quanh làng, do vậy mà họ quen biết lẫn nhau, gắn bó thân thiết với nhau và có tình liên đới tương trợ lẫn nhau mỗi khi “tắt lửa tối đèn”, hay gặp khi “trái gió trở trời, tai trời ách nước” v.v… Gia đình nào thì cũng phải lo việc “Hiếu, Hỷ” tức là việc tang ma, giỗ chạp cho cha mẹ, ông bà, hay đám cưới đám hỏi cho con cháu; mà thường gọi là việc “Quan, Hôn, Tang, Tế”. Và mỗi lần như vậy, thì bà con lối xóm cùng nhau xúm vào giúp đỡ gia chủ trong mọi chi tiết thông thường của những loại biến cố của sinh họat gia đình thường xuyên như thế này. Họ giúp đỡ nhau bằng cách cho mượn chén bát, nồi niêu, bàn ghế, giúp làm lều rạp che, giúp cả việc nấu nướng để đãi ăn cho cả hàng trăm thưc khách. Và nhất là còn cho khách từ xa đến trú ngụ tại nhà mình, bởi lẽ căn nhà của gia chủ thường không bao giờ đủ rộng rãi để có thể chứa được số đông bà con của chính họ từ phương xa mà đến như vậy.

Người nông dân lại còn giúp đỡ nhau ngay cả trong việc xây cất, sửa chữa nhà cửa và cả trong việc đồng áng theo thể thức “Vần công, đổi công cho nhau”, nay cho nhà này, mai lại đến nhà mình v.v… Nhờ các việc giúp đỡ lẫn nhau như vậy (mutual assistance), mà bà con trở thành gắn bó, liên kết thân mật chặt chẽ với nhau. Từ đó, nếp sống cộng đồng có cơ được an vui, phấn chấn và mỗi thành viên cảm thấy thoải mái, thân thương với môi trường sinh hoạt đấy ắp tình người, tình xóm giềng, nghĩa đồng hương. Đến nỗi mà nhân gian có câu:”Bán anh em xa, mua láng giềng gần”, “Thứ nhất cận lân, thứ nhì cận thân”, tức là có ý nói: “Cần phải xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp, thân thiết với bà con láng giềng kề sát với mình”, giống như người Mỹ thường nói: Good neighborhood.

Và như đã ghi ở trên, chính các bậc tôn trưởng được mọi người trong xóm làng tín nhiệm, cảm phục và mến yêu vừa do đức độ, tài năng bản thân và cũng vừa do uy tín của các bậc tiền nhân đã từng có công đức lớn lao đối với dân làng, thì các vị đó đã đóng vai trò của giới lãnh đạo cho toàn thể cộng đồng địa phương xóm làng. Các nhân vật này, ta có thể còn tìm thấy dấu tích của họ như đã được ghi chép khá trung thực, chính xác trong các cuốn gia phả của nhiều dòng họ, mà hiện nay con cháu bao nhiêu đời sau vẫn còn giữ được. Khảo sát cặn kẽ gia phả của những dòng họ danh giá tại địa phương, chúng ta còn có thể thấy rõ được những công trạng to lớn, những đóng góp tuyệt vời của các bậc “sĩ phu quân tử” này đối với địa phương cơ sở mà dòng tộc của họ đã lâu đời lập nghiệp và sinh sống tại đó. Các nhân sĩ này cũng còn được liệt kê trong những cuốn Địa dư chí của mỗi địa phương. Và nhiều nơi, dân làng lại còn lập miếu thờ các “bậc tiên hiền”, để ghi nhớ công đức của các vị đã đóng góp nhiều cho sự phát triển và hưng thịnh của địa phương. Trên một phạm vi rộng lớn hơn, ta có thể tham khảo nơi cuốn “Bách Việt tiên hiền chí” do nhà biên khảo Trần Lam Giang mới công bố cách nay vài ba năm.


Dĩ nhiên, nông thôn của chúng ta thời xưa cũng chẳng phải là cõi thiên đàng với mọi sự đều tuyệt vời, hoàn hảo. Mà vẫn còn nhiều mặt trái với những hủ lậu, tham nhũng áp bức do giới cường hào ác bá gây ra.Các khuôn mặt tiêu cực này đã được khắc họa rõ nét trong văn học như là “Bá Kiến trong tác phẩm Chí Phèo”, “Nghị Hách trong Giông Tố” v.v…Nhưng nói chung, thì xã hội cổ truyền ở làng quê vẫn còn bảo tồn được nhiều tính cách lành mạnh, hòa nhã, nhân ái và lương hảo theo đúng với truyền thống đạo đức của dân tộc. “Sơn hà xã tắc, tôn ti trật tự”, cũng như nền nếp sinh họat “trên thuận dưới hòa” vẫn được người dân coi trọng. Tình trang an hòa ổn định tại hạ tầng cơ sở nông thôn như thế này, một phần lớn đó là nhờ nơi công lao, đức độ và uy tín của các bậc tôn trưởng của mỗi địa phương như đã ghi ở trên. Nhưng tiếc thay, sau năm 1945 kể từ khi người cộng sản lên nắm chính quyền, thì họ đã phá tan tành cái nền nếp truyền thống tốt đẹp đó ở nông thôn của nước ta. Trong cơn hăng say điên lọan của cuộc cách mạng đẫm máu với khẩu hiệu “trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”, đảng cộng sản đã phát động một cuộc tàn sát, tiêu diệt toàn bộ hệ thống lãnh đạo tại nông thôn, và thay vào đó là tầng lớp cán bộ của họ, mà được đào tạo trong tinh thần “Hận thù giai cấp, Bạo lực cách mạng, Vô sản chuyên chính”.

2/ Kết quả là sau trên 60 năm người cộng sản nắm giữ độc quyền trong mọi lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội và cả đến văn hóa, tâm linh trên cả nước, thì Xã hội Dân sự tại nông thôn đã hòan toàn bị phá nát hoang tàn.Tại làng quê, không còn thấy bóng dáng của một vị tôn trưởng vốn được người dân mến thương và thần phục như xưa nữa. Đầu tiên là cuộc “Cải cách ruộng đất” rập theo khuôn mẫu của Trung quốc,chính quyền cộng sản Việt nam đã gửi các “Đội cải cách” xuống tận các thôn xóm để phát động cuộc đấu tố rất man rợ, sắt máu làm tiêu diệt mọi thành phần có tên tuổi ở địa phương. Chỉ trong có mấy năm, mà chiến dịch này đã hạ sát, bỏ tù hàng mấy trăm ngàn người, tịch thu mọi tài sản ruộng đất, nhà cửa của các nạn nhân bị quy kết là thuộc thành phần địa chủ. Các đội cải cách này có toàn quyền sinh sát đối với các nạn nhân, nên dân gian mới nói:” Nhất Đội, nhì Trời”, tức là họ còn có quyền thế hơn cả ông Trời nữa.Có thể nói trong lịch sử mấy ngàn năm, chưa bao giờ nông thôn Việt nam lại bị tàn phá kinh hoàng như trong đợt cải cách ruộng đất vào giữa thập niên 1950 như thế này. Đây rõ rệt là một cuộc “Đại khủng bố” nhằm tiêu diệt toàn bộ hệ thống lãnh đạo Xã hội Dân sự tại thôn quê miền Bắc nước ta.

Tiếp theo là chiến dịch “Tập thể hóa ruộng đất” được phát động cũng tàn bạo quyết liệt không kém việc cải cách ruông đất nói trên. Tất cả các thửa đất tư hữu của người dân đều bị cưỡng bức xung vào “hợp tác” và nông dân bị biến thành người làm công, làm “nông nô”, được trả lương rất thấp kém, đến độ không thể nuôi sống cho riêng bản thân mình, nói chi đến cưu mang cho cả gia đình.Vì thế mà nông dân phải tìm cách làm thêm nhiều nghề vụn vặt hầu đắp đỗi qua ngày.

Rốt cuộc là cả hai chiến dịch Cải cách và Tập thể hóa ruộng đất này đã phá tan hoang tất cả nền nếp sinh hoạt của hương thôn mà cha ông chúng ta đã phải dầy công khó nhọc suốt bao nhiêu thế hệ mới gây dựng ra được.Vì kinh tế suy xụp, người dân lâm vào cảnh bần cùng đói kém, lại cộng thêm với cuộc chiến tranh Nam Bắc mỗi ngày một leo thang khủng khiếp, khiến cho tình trạng xã hội càng thêm tiêu điều, khốn khổ. Vì thế, có thể nói là khu vực Xã hội Dân sự truyền thống đã bị tan rã, vô hiệu hóa để mặc cho các tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản như Đoàn Thanh Thiếu niên,Hội Phụ nữ,Mặt Trận Tổ quốc v.v…tha hồ mà tung hoành “một mình một chợ, dọc ngang nào biết trên đầu có ai”!

Vì chủ trương”Bạo lực cách mạng, Chuyên chính vô sản, Tranh đấu giai cấp, Dân chủ tập trung”… rất là cực đoan, quá khích đến độ cuồng tín theo sách lược của Staline, Mao Trạch Đông, cho nên các cán bộ, viên chức cộng sản ở nông thôn không hề có được uy tín và sự mến phục của quần chúng nhân dân, như trường hợp của các vị tôn trưởng tại làng quê hồi trước 1945 như đã mô tả chi tiết ở trên.Thành ra tại các miền quê nơi thôn xã đã có tình trạng “trống vắng lãnh đạo” (the vacuum of leadership), khiến cho người dân không còn có thể sinh họat theo lối “an cư lạc nghiệp”, như trong cảnh thanh bình, yên ấm thuở xưa. Và khu vực Xã hội Dân sự đã bị tê liệt, tan rã không còn sinh khí năng động, phấn khởi mà lại an hòa với tình nghĩa đôn hậu, chân chất của xóm làng trước đây nữa. Có thể nói tình trạng xã hội bế tắc, hoang tàn như vậy là một vết thương rất ư trầm trọng, đã hằn sâu trong lòng dân tộc Việt nam, mà chế độ cộng sản đã gây ra từ trên nửa thế kỷ nay. Và phải mất nhiều thế hệ nữa, thì dân tộc ta mới có thể lần lần phục hồi, củng cố tái thiết lại. Bởi vì cái lòng hận thù, uất ức vốn bị dồn nén từ bao nhiêu năm nay trong các gia đình ở nông thôn chúng ta, thì không thể ngày một ngày hai mà giải tỏa, dẹp bỏ hết ngay đi được.Cũng như về mặt tích cực, ngay trong số con cháu của những “danh gia vọng tộc” ngày trước, thì cũng phải mất nhiều năm nữa họ mới gây dựng và quy tụ lại với nhau, hầu nối tiếp được cái sứ mạng cao quý, mà tổ tiên của họ đã có thời hoàn thành một cách xuất sắc, như đã được ghi lại trong sử sách cũng như trong lời truyền tụng của dân gian.

Công cuộc tái kiến thiết và phục hồi lại Xã hội Dân sự hiện đang được thực hiện tại các nước Đông Âu và Nga từ 20 năm nay, kể từ ngày chế độ cộng sản sụp đổ, để trả lại quyền tự quyết cho nhân dân các quốc gia này được nhận lấy trách nhiệm hàn gắn những hận thù đổ vỡ trong xã hội, và tạo ra được một bàu không khí phấn khởi, nô nức nơi mọi tầng lớp quần chúng trước vận hội mới của đất nước mình. Và đây mới rõ ràng là một hành trình của mỗi dân tộc đó để” trở về lại với cuộc sống bình thường” của chính mình (the return to the normal way of life), như nhà xã hội học Max Weber đã từng viết ngay từ đầu thế kỷ XX.

Đó cũng là một kinh nghiệm quý báu cho dân tộc Việt nam chúng ta, để chuẩn bị bước sang giai đoạn “hậu cộng sản”trong một tương lai không còn xa vời nữa vậy./

California, Tháng 11 năm 2008

Đoàn Thanh Liêm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.