Hôm nay,  

Đông Á Xoay Vần

2/26/201500:00:00(View: 6624)

Bị rủi ro nhất trong số này cũng chính là Việt Nam...

Bước vào một năm âm lịch mới, với nhiều quốc gia Đông Á vẫn còn sử dụng lịch pháp này và coi năm Ất Mùi là một vận hội mới, Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về vận hội đó. Xin quý thính giả theo dõi cách Gia Minh nêu vấn đề với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa về dự báo này.

Gia Minh: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, chúng ta vừa bước vào một năm âm lịch mới, năm nay được gọi là Ất Mùi. Như thông lệ thì mở đầu cho một chu kỳ mới, ai cũng muốn dự đoán thời vận của năm mới, nhất là tại khu vực Đông Á là nơi mà nhiều quốc gia vẫn dùng âm lịch làm cơ sở tính toán thời vận. Trên diễn đàn này, ông nhiều lần cảnh báo về thời kỳ thoái lui của kinh tế Trung Quốc sau mấy thập niên tăng trưởng rất ngoạn mục. Nếu Trung Quốc thoái lui như vậy thì các nước Đông Á sẽ ra sao? Và Việt Nam nên làm gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng ta sẽ trước tiên nhìn vào Trung Quốc vì đấy là một cường quốc kinh tế cấp vùng với sản lượng đã vượt qua Nhật Bản năm năm về trước để là nền kinh tế đứng hạng nhì thế giới.

- Khi nhìn vào Trung Quốc thì ta không thể quên chuyện trường kỳ và vấn đề ngắn hạn. Trong ngắn hạn, kinh tế Trung Quốc bước vào thời suy giảm, với đà tăng trưởng thấp và rủi ro cao hơn. Xứ nào cũng có thể trải qua giai đoạn ấy khi áp dụng quy luật của thị trường để tăng trưởng và sau vài chục năm thành công thì cũng có lúc hụt hơi và bị khủng hoảng nếu tăng trưởng không có nền tảng lành mạnh. Nhưng nhìn trong trường kỳ - và đây là một đặc tính của lãnh đạo Trung Hoa thời xưa hay Trung Quốc thời nay – thì xứ này theo đuổi một chiến lược lâu dài là dùng kinh tế hơn quân sự như lợi thế giúp mình trở thành một siêu cường ngang tầm Hoa Kỳ rồi vài chục năm nữa thì sẽ vượt qua Hoa Kỳ để trở thành một trung tâm có ảnh hưởng của thế giới.

Gia Minh: Vâng thưa ông, nếu bây giờ ta nói về chuyện ngắn hạn thì những gì có thể xảy ra cho kinh tế Trung Quốc?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Theo thuật "quỷ biển", với chữ biển lận, rất quen thuộc của văn hoá chính trị Trung Hoa, là gây ra ấn tượng sai về chính mình để lừa gạt người khác, thì lãnh đạo Bắc Kinh đã thành công khi làm thế giới hiểu lầm. Rằng họ áp dụng quy luật thị trường để phát triển quốc gia và nhờ kinh tế tăng trưởng khả quan thì chính trị trên thượng tầng cũng thay đổi khiến Trung Quốc sẽ theo xu hướng dân chủ. Sự thật không được lạc quan như vậy vì Bắc Kinh chỉ áp dụng quy luật thị trường một cách hạn chế và tập trung tài nguyên vào khu vực kinh tế nhà nước với các tập đoàn quốc doanh được chế độ độc tài ưu tiên nâng đỡ và ngày nay vẫn cung cấp đến 40% Tổng sản lượng GDP.

- Tuy nhiên, sau một giai đoạn tăng trưởng với lực đẩy là đầu tư, chiếm tới hơn 40% của GDP, thì kinh tế Trung Quốc hết đà tăng trưởng và ưu thế có nhân công rẻ với lương bổng thấp cũng không còn. Vì vậy, từ nhiều năm nay lãnh đạo xứ này phải chuyển hướng kinh tế là tìm lực đẩy nhờ tiêu thụ, với ưu tiên là khu vực dịch vụ thay vì khu vực chế biến hàng công nghiệp nhẹ.

Gia Minh: Thưa ông, từ Đại hội khóa 18 vào cuối năm 2012 thì Bắc Kinh đã nói đến việc cải cách kinh tế theo hướng đó và sẽ áp dụng quy luật thị trường một cách phổ biến hơn, với tầm quan trọng giảm thấp của các tập đoàn kinh tế và ngân hàng của nhà nước. Nhưng sau ba năm thì họ có làm được như vậy không? Hõi cách khác, họ có thực lòng cải cách như vậy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ rằng họ thật sự chẳng có cách nào khác vì khu vực kinh tế nhà nước thành những trung tâm thu vét tài nguyên mà chẳng đóng góp gì cho phát triển. Nhưng cũng chính các trung tâm ấy đang tìm cách cản trở nỗ lực chuyển hướng vì sợ mất quyền lợi. Vì thế chúng ta mới thấy cả một chiến dịch giải trừ tham nhũng và truy tố các đảng viên cao cấp để lãnh đạo có thể thâu tóm quyền lực về trung ương hầu lèo lái con thuyền kinh tế ra khỏi vùng giông bão. Thuần về kinh tế thì việc chuyển hướng đó không dễ mà phải cần thời gian trong khi tốc độ tăng trưởng sẽ giảm chứ không thể là trên 7% một năm như Bắc Kinh đề ra.

- Yếu tố thứ hai mà ta cần chú ý là trong ba chục năm đầu của thời cải cách do Đặng Tiểu Bình đề xướng thì các tỉnh duyên hải đã phát triển mạnh nhờ hội nhập và làm ăn với bên ngoài. Trong khi các tỉnh bị khóa trong lục địa thì vẫn nghèo nàn và lạc hậu khiến xã hội xứ này gần như bị chia đôi như trong quá khứ và gây lo sợ cho lãnh đạo. Vì vậy họ tập trung quyền lực về trung ương để có thể tái phân lợi tức và phát triển các tỉnh ở bên trong. Nỗ lực đó cũng chẳng dễ dàng và mau chóng hoàn tất, dù hậu quả xã hội của tình trạng phát triển thiếu cân bằng và chẳng công bình đó đang gây ra nguy cơ động loạn, là điều đã từng xảy ra trong lịch sử xứ này.

- Sau cùng, cũng cần nhìn thấy một yếu tố bất ổn thứ ba là su vụ Tổng suy trầm toàn cầu vào năm 2008, Bắc Kinh dùng tín dụng làm đòn bẩy kích thích kinh tế, với số vay nợ tăng gấp bốn và nay đã vượt gấp đôi Tổng sản lượng. Các doanh nghiệp Trung Quốc nay có mức nợ cao nhất thế giới và điều ấy cũng đe dọa hệ thống ngân hàng khiến khủng hoảng tài chính có thể bùng nổ như đã xảy ra cho mọi quốc gia đi trước, thí dụ như Nhật Bản hay Đại Hàn vào các năm 90, 97.

Gia Minh: Tổng kết lại về kinh tế Trung Quốc vào đầu năm Mùi, thì vận hội mới của họ là gì?


Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Lãnh đạo Bắc Kinh đang trước hết thâu tóm quyền lực và còn độc tài hơn trước để bố trí lại phương tiện cho các khu vực và thành phần kinh tế theo ưu tiên khác. Hậu quả là thêm nạn độc tài mà ít đà tăng trưởng. Họ bước vào năm mới trong tình trạng khó khăn ấy nên viện dẫn một động lực tâm lý khác là chủ nghĩa quốc gia dân tộc, cũng là một truyền thống khá quen thuộc mỗi khi quốc gia lâm nguy. Trong hoàn cảnh đó, các nước Đông Á tính sao?

Gia Minh: Quả thật như vậy, trong hoàn cảnh đó các nước lân bang tại Đông Á tính sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi trộm nghĩ rằng họ có những cơ hội mới về kinh tế mà cũng gặp hiểm tai lớn về an ninh.

- Trong quá khứ, xứ nào cũng từng áp dụng chiến lược thu hút tư bản để phát triển nhờ có nhân công nhiều và rẻ như Hoa Kỳ đã khởi đầu từ 130 năm về trước, hoặc Nhật Bản từ 60 năm trước. Trung Quốc cũng theo đường này và với dân số cao nhất địa cầu đã trở thành một công xưởng của thế giới. Chuyện ấy ngày nay đã hết vì họ cũng bị nạn lão hóa dân số từ kế hoạch mỗi hộ một con được ban hành từ năm 1978 và vì nhân công khan hiếm hơn đã đòi mức lương cao hơn.

- Vì vậy, rất nhiều quốc gia trên thế giới có thể trám vào cái khoảng trống do kinh tế Trung Quốc để lại. Khoảng trống đó là các ngành sản xuất sản phẩm tiêu dùng như áo quần, giầy dép, đồ đạc và cả ngành ráp chế điện thoại cầm tay hay linh kiện điện tử. Các ngành này có ưu điểm là cần ít tư bản và có thể di chuyển cơ sở tương đối dễ dàng đến những nơi có nhân công nhiều và rẻ.

Gia Minh: Thưa ông, thế thì ai chuyển tư bản vào nhưng nơi đó?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chính là các doanh nghiệp đã từng góp phần cho đà tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc. Bây giờ, các tập đoàn quốc tế ấy sẽ phải tìm nơi khác làm công xưởng. Nơi đó có thể là Mexico hay Peru tại Trung Nam Mỹ, có thể là vài xứ Đông Phi chưa bị loạn vì nạn khủng bố Hồi giáo. Nhưng an toàn và nằm giữa một khu vực thịnh vượng thì có các nước Châu Á, như Bangladesh, Sri Lanka, và nhất là các nước Đông Nam Á như Miến Điện. Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Philippines hay Indonesia. Trong danh sách này có khi còn vài xứ khác chứ mình chưa thể biết hết được. Mà đã nói về nhân lực thì ta chẳng thể quên thành phần phụ nữ ngày nay đã mạnh mẽ tham gia thị trường lao động, nhất là tại Đông Á.

- Nếu nghĩ đến các tiêu chuẩn quyết định cho việc thiên hạ chọn nơi đầu tư để thay thế thị trường Trung Quốc thì ta có thể kể ra là 1) dân số, 2) trình độ tay nghề nhờ giáo dục và đào tạo, 3) khả năng Anh ngữ và 4) nhất là sự lành mạnh của môi trường đầu tư với luật lệ minh bạch.

- Kể từ năm Mùi này, ta có thể nghĩ đến một kỷ nguyên tăng trưởng cho các nước tại Đông Á khi họ thay thế vai trò của Trung Quốc. Đây là một sự xoay vần mới, có thể kéo dài cả chục năm cho đến khi các nước đó cũng tiến lên một trình độ phát triển khác.

Gia Minh: Thưa ông, trong vành cung Đông Á kéo dài từ Ấn Độ dương qua Thái bình dương như ông vừa trình bày thì có cả Việt Nam. Liệu Việt Nam có nắm bắt được cơ hội này không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi e là không vì dù Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh với các nước Đông Á kia nhờ nhân lực trẻ và có hiểu biết nhưng lại gặp giới hạn là môi trường đầu tư chưa thông thoáng, hành chính thiếu minh bạch và có quá nhiều tham nhũng. Và Việt Nam còn bị một giới hạn chết người hơn nữa là lãnh đạo Hà Nội lại coi xứ mình như sân sau của Trung Quốc nên ưu tiên tạo điều kiện dễ dãi cho giới đầu tư của Trung Quốc. Thành thử, Việt Nam có thể lỡ cơ hội thoát Tầu, đấy là chuyện rất đáng nói về năm Mùi.

Gia Minh: Hồi nãy ông có nói rằng các nước Đông Á có những cơ hội mới về kinh tế mà cũng gặp rủi ro lớn về an ninh. Thưa ông, rủi ro đó là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi lãnh đạo Trung Quốc phải chuyển hướng trong giai đoạn khó khăn, họ đề cao chủ nghĩa dân tộc và nói đến giấc mơ Trung Hoa là trở thành siêu cường ngang tầm Hoa Kỳ. Họ chưa có khả năng quân sự để thách đố sức mạnh của Hoa Kỳ mà vẫn có thể uy hiếp xứ khác, trước hết là các lân bang tại Đông Á. Trong số này không có các nước vững mạnh như Nhật Bản, Nam Hàn hay thậm chí Đài Loan mà chỉ có các nước trong vùng Đông Nam Á. Bị rủi ro nhất trong số này cũng chính là Việt Nam, ngày nay đang bị bao vây ở bên ngoài mà bên trong thì bị Trung Quốc điểm vào xương sống sau khi đã thu phục giới lãnh đạo ở trên.

Gia Minh: Câu hỏi cuối về sự xoay vần sắp tới của Đông Á, thưa ông, các quốc gia trong khu vực này có thể làm gì để thêm sức mạnh về kinh tế mà giảm thiểu rủi ro về an ninh từ Bắc Kinh?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng các quốc gia phú cường trên thế giới đều muốn có một khu vực Đông Á thịnh vượng và ổn định nên vì quyền lợi của mình, họ đều phải canh chừng động thái của Trung Quốc. Ta có thể kể đến hàng loạt quốc gia bán đảo hay quần đảo vây quanh Trung Quốc từ Ấn Độ dương qua Thái bình dương, là Ấn Độ, Úc, Nam Hàn, Nhật Bản và dĩ nhiên cả Hoa Kỳ. Không ai muốn công khai nói đến chuyện be bờ ngăn chặn Trung Quốc như đã từng làm chung quanh Liên bang Xô viết trong thời Chiến tranh lạnh, nhưng chính vì chủ trương bành trướng của Bắc Kinh, phản ứng ngăn chặn này đang tự nhiên thành hình và đấy cũng là một sự xoay vần của Đông Á.

Gia Minh: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc phỏng vấn này.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.