Hôm nay,  

Tính Ra GDP Để Làm Gì?

18/06/201500:00:00(Xem: 6654)

...nợ của TQ có thể sẽ nhân đôi trong bảy tám năm nữa thì mới duy trì được đà tăng trưởng 7%...
 
Khi lãnh đạo một quốc gia đặt ra chỉ tiêu tăng trưởng là 7% hay 6,5% thì điều ấy có nghĩa là gì? Sâu xa hơn vậy, khái niệm Tổng sản lượng Kinh tế hay Tổng sản phẩm Xã hội, hoặc GDP là gì? Diễn đàn Kinh tế tìm giải đáp cho các câu hỏi đó qua phần phân tích sau đây của chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa. Xin mời quý thính giả theo dõi cách Mặc Lâm nêu vấn đề….

 Mặc Lâm: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, cách đây mấy tháng, trong phiên họp của Quốc hội Trung Quốc, Thủ tướng Lý Khắc Cường đã đề ra hai mục tiêu là duy trì mức tăng trưởng bền vững vào khoảng 7% và giải quyết gánh nợ quá lớn của nền kinh tế. Cách đây ít ngày, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam cũng nói đến chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế năm nay sẽ là 6,5%. Khi có những tuyên bố như vậy thì người ta nên nghĩ sao? Và đi sâu hơn vào vấn đề thì tăng trưởng là gì, làm sao đo lường được mức tăng trưởng đó?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin lần lượt đi vào vấn đề để tìm giải đáp cụ thể cho mấy câu hỏi này.

- Nói về tình hình Trung Quốc khi tuần trước chúng ta đã nêu câu hỏi về sự mạnh yếu của kinh tế xứ này thì mình nên nhớ vài chuyện trong bối cảnh. Trung Quốc đang có một vấn đề nghiêm trọng là gánh nợ quá cao của cả quốc gia. Theo các nguồn thẩm định đáng tin cậy thì kinh tế Trung Quốc đang mắc nợ từ 250% đến 282% của Tổng sản lượng GDP. Nếu ta chấp nhận ước tính phổ thông của các định chế quốc tế thì tính đến cuối năm ngoái, Tổng sản lượng của Trung Quốc ở khoảng hơn chín ngàn tỷ đô la, tức là xứ này có thể mắc nợ từ 22 ngàn 500 tỷ đến 25 ngàn 400 tỷ đô la.

- Chi tiết thứ hai đáng chú ý là gánh nợ của Trung Quốc đã tăng vọt và ngày càng nặng hơn trong mươi năm vừa qua. Giới kinh tế có một phép tính dễ nhớ là đếm thử xem kinh tế phải bơm thêm bao nhiêu tiền về tín dụng, hoặc vay thêm bao nhiêu tiền, để tạo thêm một đơn vị sản xuất. Như Trung Quốc phải bơm thêm bốn đồng vào kinh tế thì sản lượng mới tăng thêm được một đồng.  Khi Thủ tướng Bắc Kinh đề ra chỉ tiêu tăng trưởng là 7% thì điều ấy có nghĩa là sản lượng kinh tế sẽ tăng thêm được 630 tỷ đô la. Muốn như vậy, họ phải bơm thêm gần ba ngàn tỷ tiền nợ. Với đà vay mượn quá cao như hiện nay, gánh nợ của Trung Quốc có thể sẽ nhân đôi trong bảy tám năm nữa thì mới duy trì được đà tăng trưởng 7%. Như vậy, làm sao giải quyết mục tiêu giảm nợ được?

- Kết luận ở đây là Thủ tướng Bắc Kinh đưa ra một chiến lược mâu thuẫn và hai mục tiêu bất khả. Trường hợp Việt Nam cũng không khác, khi lãnh đạo đưa ra một con số và treo lên đó nhiều hy vọng mà chẳng biết làm sao có thể đạt mục tiêu hay chỉ tiêu được đề ra.

Mặc Lâm: Nếu vậy thì chúng ta có thể tìm đến câu hỏi “tăng trưởng là gì”?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta tạm mường tượng ra một hình ảnh đơn giản sau đây cho dễ hiểu.

- Ta có một nhà máy sản xuất, một khu vực kinh tế hay một quốc gia. Trong một khoảng thời gian nhất định, như một năm, một quý hay một ngày, mình đưa vào đó một số nhập lượng hay tài sản như nguyên nhiên vật liệu và công sức con người, v.v… thì ở đầu ra sẽ có một số xuất lượng.

- Khi xuất lượng ở đầu ra trị giá cao hơn nhập lượng ở đầu vào thì ta có gia tăng sản xuất hay tái sản. Ngược lại, nếu xuất lượng thấp hơn nhập lượng thì ta không có sản xuất mà chỉ có sản nhập!

- Sai số hay sự khác biệt giữa xuất lượng và nhập lượng sẽ cho ta con số tăng trưởng. Tổng số tăng trưởng của quốc gia hay một khu vực kinh tế trong một thời khoảng nào đó được gọi là GDP, là Tổng sản lượng Nội địa hay Tổng sản phẩm Xã hội. Nếu so sánh GDP trong thời gian từ năm này qua năm khác, hay trong không gian từ xứ này qua xứ khác, thì mình có đà tăng trưởng, giả dụ là 7% hay 6,5%, là giá trị tài sản lên xuống đến cỡ nào. Vấn đề ở đây nằm ở chữ “giá trị” hay cách tính trị giá của nhập lượng và xuất lượng. Nếu cách tính đó thiếu chính xác - thí dụ như làm sao đo được sự ô nhiễm môi sinh trong chu trình sản xuất để tính thành tiền? - thì con số sản lượng, tăng trưởng hay GDP cũng thiếu chính xác. Tức là không đáng tin.
Mặc Lâm: Thưa ông, xét như vậy thì quả thật là vấn đề quá rắc rối vì ta phải đếm ra từng loại nhập lượng như nguyên liệu, nhiên liệu, hay công sức con người được đo bằng tiền lương lao động chẳng hạn, rồi mới cho mỗi nhập lượng này một trị giá thì sau cùng mới có con số về GDP. Mà số liệu này lại tùy thuộc vào quá nhiều yếu tố sai lạc như cách đếm và cách tính giá, nếu vậy thì tại sao người ta vẫn cần tính ra và nói đến GDP?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Câu hỏi rất hay vì cho thấy là ta nên thận trọng khi sử dụng số liệu này.

- Với rất cả những khiếm khuyết trong cách đếm và cách tính, người ta vẫn cần con số GDP. Thứ nhất, đó là một số liệu tạm về lượng tài sản hay sản lượng mà mình tạo ra. Không có một cái cân đo lường dù lệch lạc thì mình vẫn chẳng biết được kết quả lao động là gì. Thứ hai, con số GDP ấy cũng có ích để so sánh một nền kinh tế trong hai thời điểm khác nhau, hoặc hai nền kinh tế trong cùng một khoảng thời gian nhất định. Việc so sánh này mới thật sự là quan trọng.


Mặc Lâm: Nhưng thưa ông, nếu có sự sai lệch trong cách tính ra số liệu mà mình gọi là GDP thì việc so sánh ấy có còn giá trị hướng dẫn gì không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa là vẫn có giá trị. Thí dụ như khi ta tính ra Tổng sản lượng của kinh tế Trung Quốc vào năm 2015 và so sánh với số liệu đó vào năm ngoái. Cho dù cách tính có thể sai nhưng nếu cái “sai” của năm nay và năm ngoái cứ nguyên như vậy thì mình vẫn có thể so được.

- Vấn đề xảy ra là trong hệ thống thu thập thống kê của Trung Quốc người ta thường xuyên thấy có sai lệch giữa số liệu của các cơ quan kiểm kê từ trung ương tới các chi nhánh địa phương và con số báo cáo của chính quyền địa phương trình lên trên. Thông thường, báo cáo về sản lượng của các địa phương luôn luôn cao hơn con số từ các phủ bộ của trung ương. Khi tính gộp lại thì Tổng sản lượng toàn quốc luôn luôn cao hơn con số của Cục Thống kê Quốc gia.

- Lý do giải thích ở đây nằm trong hệ thống chính trị. Các đảng viên cán bộ ở địa phương không chịu trách nhiệm với người dân ở dưới mà thăng quan tiến chức là nhờ thượng cấp ở trên, cho nên khi báo cáo lên trên họ có xu hướng tô hồng và lên mỗi cấp lại nống thêm một hệ số tô hồng với kết quả tổng hợp là một con số quá cao. Vì vậy, người ta rất khó cải tiến bộ máy thống kê của một xứ độc tài cho khả tín hơn nếu không cải cách chính trị. Sau cùng thì người ta phải tạm đo bằng cách khác và tìm ra một phần sự thật. Chẳng hạn như đà tăng trưởng không thể cao như vậy trong khi sản lượng điện than tiêu thụ lại giảm, là chuyện rất thường xảy ra tại Trung Quốc.

Mặc Lâm: Có phải đấy là nguyên nhân khiến cho thế giới không đánh giá cao chỉ tiêu kinh tế của các nước độc tài hay không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ có ba lý do trong hiện tượng gọi là “không đáng tin” này.

- Thứ nhất là cách thu thập thống kê thiếu chính xác. Thứ hai là khi đề ra chỉ tiêu, họ chỉ khích lệ cấp dưới báo cáo láo để vượt chỉ tiêu. Thứ ba là dù nhà nước cứ nắm lấy quyền quản lý kinh tế một cách duy ý chí, họ không thật sự chi phối được tất cả. Thí dụ như lãnh đạo Bắc Kinh đòi giảm nợ mà cứ duy trì đà tăng trưởng 7% thì họ vẫn duy ý chí và phủ nhận quy luật khách quan của kinh tế. Nếu muốn giảm nợ thì phải chịu một đà tăng trưởng thấp hơn, có khi chỉ 3-4% để sau dăm ba năm thì sẽ có nền móng lành mạnh hơn. Nhưng nếu vẫn muốn có 7% tăng trưởng mà không chấn chỉnh hệ thống tín dụng và ngân hàng thì chỉ chất thêm nợ và tất yếu bị khủng hoảng, tức là lao cỗ xe xuống vực cho lẹ hơn!

- Vì những nguyên nhân nói trên, các nước công nghiệp hóa không có cái lệ đặt ra chỉ tiêu cho cả nước, dù trong nước, từng doanh nghiệp đều lặng lẽ tính ra chỉ tiêu của quý sau, của năm tới. Đấy là một sự khác biệt quan trọng về tư duy và dẫn đến khác biệt về phương thức quản lý.

Mặc Lâm: Thưa ông, hồi nãy ông có nói đến hình ảnh của một cái cân lệch với hàm ý là nếu dùng cái cân lệch ấy để đo cùng một vật trong hai thời điểm thì việc so sánh ấy vẫn có giá trị. Các nước có cách nào điều chỉnh cái cân lệch ấy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa. - Các quốc gia văn minh đều ý thức được những khiếm khuyết của việc đo lường nên thường xuyên cải sửa và không tự cột mình vào một cái cân lệch. Khi họ điều chỉnh theo một phương pháp mới thì cũng tính ngược lại kết quả đã qua để có cùng một nền tảng so sánh cho thuần nhất hơn. Nhưng quan trọng hơn cả là trong hệ thống dân chủ thì người đo đếm hoặc thu thập thống kê là một pháp nhân độc lập, lợi tức hay chức phận của họ không tùy thuộc vào cách cân đo. Nói cho cùng, nền dân chủ không là một thể chế vẹn toàn nhưng vẫn ít tệ nhất vì nhờ đó mà xã hội tránh được sai lầm và nếu có sai thì còn có người sửa. Trong một chế độ độc tài thì chẳng ai được làm trọng tài độc lập để vạch ra cái sai và khủng hoảng kinh tế thường dẫn tới khủng hoảng chính trị nên lãnh đạo càng không muốn cải sửa thì khủng hoảng càng dễ xảy ra.

Mặc Lâm: Câu hỏi sau cùng, hơi chuyên môn một chút, là khi ông nói đến tổng số tài sản phụ trội dược tạo thêm trong một chu trình sản xuất. Thưa ông, người ta có cách nào so sánh lượng tài sản của hai quốc gia trong cùng một thời điểm không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Câu hỏi chuyên môn này rất xác đáng vì cho chúng ta một cách nhìn khác.

- Thí dụ như khi tính rằng sản lượng GDP của Hoa Kỳ vào năm 2014 là khoảng 17 ngàn tỷ đô la và của Trung Quốc cùng năm đó thì mình có thể nói là kinh tế Mỹ giàu gần gấp hai kinh tế Tầu. Nhưng nếu đo tổng số tài sản của tư nhân tại hai nước thì mình có con số khác. Của dân Mỹ là gần 43 ngàn tỷ, của dân Tầu thì chỉ được chưa đầy năm ngàn tỷ, tức là chỉ bằng một phần chín mà thôi. Vì vậy khi cứ nghe người ta nói rằng kinh tế Trung Quốc đã hoặc sắp bắt kịp kinh tế Hoa Kỳ thì ta nên nhìn lại. Nếu cứ tin vào đó mà suy ngẫm về sức nặng chính trị thì còn sai lầm nữa.

Mặc Lâm: Xin cảm tạ ông Nghĩa về bài phân tích này.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.