Hôm nay,  

Nhật-Hoa Tái Ngộ

25/07/201500:00:00(Xem: 6537)
Sự sợ hãi của ngươi mới làm ta hãi sợ...

Ngày xưa, có một quốc gia thiếu tài nguyên đã sớm bước vào tiến trình kỹ nghệ hóa rồi phát giác rằng mình càng thiếu tài nguyên. Tài nguyên đó là nguyên nhiên vật liệu và sức lao động. Quốc gia đó là Nhật Bản, sau cuộc canh tân của Minh Trị Thiên Hoàng.

Là một quốc gia quần đảo, Nhật giải quyết nạn thiếu thốn ấy bằng chinh phục: tìm nguồn cung cấp ở nơi khác và dùng nhân công xứ khác giải quyết việc sản xuất cho mình. Càng tiến nhanh trong bước công nghiệp hóa, Nhật Bản càng phải bảo vệ nguồn cung cấp tài nguyên và nhân lực. Một cách khái quát, đấy là những nguyên nhân chính khiến Nhật Bản trở thành cường quốc hung hăng đã chiến thắng hai đại cường lân bang tại Á Châu, là Trung Quốc và Đế quốc Nga, trong các trận hải chiến lừng danh cuối thế kỷ 19 (1895) và đầu thế kỷ 20 (1905). Sau đó, Nhật còn dữ dội hơn vậy, chiếm đóng bán đảo Triều Tiên năm 1910 và một phần lãnh thổ Trung Quốc năm 1937.

Từ hướng Đông của biển Thái Bình, một cường quốc khác theo dõi động thái này và tìm cách giới hạn sự bành trướng của Nhật để bảo vệ các tiểu bang miền Tây của mình. Đó là Hoa Kỳ.

Khi Nhật hất cẳng các nước Âu Châu tại vùng thuộc địa ở Đông Nam Á và uy hiếp đất bảo hộ của Mỹ trên Thái Bình Dương là Philippines thì Hoa Kỳ quyết định phong tỏa kinh tế Nhật và chặn mất 80% nguồn năng lượng cho các hãng xưởng Nhật Bản. Vì vậy, đáng lẽ Hoa Kỳ chẳng nên ngạc nhiên về phản ứng của Nhật, là vụ tấn công Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) của quần đảo Hawaii ngày bảy Tháng 12 năm 1941.

Ngay hôm sau, Hoa Kỳ khai chiến và tham gia Thế chiến II, thật ra khởi sự trước đó khá lâu tại Âu Châu.

Sau một cuộc chiến dai dẳng và tốn kém trên biển Thái Bình, Hoa Kỳ khuất phục được Nhật Bản, cách nay đúng 70 năm, bằng hai quả bom nguyên tử. Điều kỳ lạ là khi nước Nhật bại trận phải đầu hàng, toàn bộ hệ thống kỹ nghệ bị tan tành mà người dân vẫn cam chịu và gìn giữ sự ổn định của một xã hội thuần chủng. Nhật bị giải giới, chấp nhận một Hiến pháp phi quân sự do Hoa Kỳ soạn thảo, vài chục năm sau trở thành một đồng minh phú cường của Hoa Kỳ, theo chế độ dân chủ. Từ đó, Nhật giải quyết nhu cầu kinh tế - nguyên nhiên vật liệu và nhân công – theo hướng tự do và hòa bình, qua ngoại thương và đầu tư, dưới cái dù bảo vệ của Hoa Kỳ.

Khi Chiến tranh lạnh kết thúc năm 1991, cường quốc kinh tế này ở vào phe chiến thắng nhưng bắt đầu bị khủng hoảng. Nạn bể bóng đầu tư dẫn tới suy trầm và cơ chế chính trị sơ cứng cản trở việc cải cách nên trong hơn 20 năm, Nhật Bản vẫn chưa ra khỏi khó khăn.

* *

Đó là chuyện ngày nay, khi mà tuần qua, Thủ tướng Shinzo Abe tung ra “mũi tên thứ ba” của công cuộc cải cách sau hai mũi tên tiền tệ và ngân sách, nhằm phá vỡ các thế lực cản trở, nhất là trong khu vực năng lượng, lao động và canh nông. Nhưng bài toán của Nhật không chỉ có vậy.

Vì khi Nhật Bản bắt đầu suy trầm, bên kia biển Hoàng Hải, một cường quốc đã xuất hiện và đi theo con đường bành trướng của Nhật trăm năm về trước. Đấy là Trung Quốc.

Sau 100 năm lụn bại kể từ 1842, trong Thế chiến II, Trung Quốc là nạn nhân của Nhật, lãnh thổ là trận địa của chiến tranh chống Nhật và nội chiến Quốc-Cộng. Sau khi đảng Cộng sản chiến thắng năm 1949, trong 30 năm, Trung Quốc là nạn nhân của Mao Trạch Đông cho đến khi Mao tạ thế năm 1976 và Đặng Tiểu Bình cải cách năm 1979. Từ đó Trung Quốc nghĩ đến việc phục hưng và cũng áp dụng bài học canh tân và công nghiệp hóa của Nhật và của các nước Đông Á khác.

Ngày nay, vào thế kỷ 21, lãnh đạo xứ này cũng phát giác “sự thật Nhật Bản” đã thấy từ thế kỷ 19: đói ăn, khát dầu, thiếu nước và cần nguyên nhiên vật liệu cùng các thị trường xuất cảng.

Nhưng thay vì giải quyết như Nhật Bản sau Thế chiến II, một cách hòa bình theo quy luật thị trường, lãnh đạo Trung Quốc nghĩ đến giải pháp bành trướng và phòng thủ một cách tích cực hơn. Chiếm đóng để bảo vệ. Bắc Kinh mở rộng kiểm soát vùng biển cận duyên bao trùm lên một chuỗi quốc gia bán đảo hay hải đảo, gọi là “Đệ nhất Đảo liên” ngoài Đông hải, và còn nghĩ đến vùng biển viễn duyên, Thái Bình Dương, là chuỗi “Đệ nhị Đảo liên” kéo đến tận căn cứ Guam và quần đảo Hawai của Hoa Kỳ.


Rút kinh nghiệm tốn kém của chiến tranh quá xa lãnh thổ thời Đệ nhị Thế chiến trên Thái Bình Dương và hai cuộc chiến Á Châu trên bán đảo Triều Tiên và tại Việt Nam, Hoa Kỳ muốn tránh đụng trận với Trung Quốc. Mỹ chủ trương bảo vệ quyền tự do lưu thông trên biển và không can dự vào vấn đề chủ quyền ở các quần đảo thuộc vòng “Đệ nhất Đảo liên” hay cái “Lưỡi Bò 10 Khúc” của Bắc Kinh.

Nhật Bản không có hoàn cảnh địa dư đó.

Vì vậy, song song cùng việc cải cách kinh tế xã hội bên trong, từ nhiều năm nay, Chính quyền Shinzo Abe vận động việc cải tổ Hiến pháp và luật lệ để Nhật Bản sẽ có khả năng quân sự bảo vệ quyền lợi của mình – lẫn các đồng minh. Hôm 21 vừa qua, cùng “mũi tên thứ ba” về kinh tế của Abe, Bộ Quốc phòng Nhật Bản công bố Bạch thư “Phòng vệ Nhật Bản 2015”.

Tài liệu này được hoãn một tuần theo yêu cầu của đảng cầm quyền Tự do Dân chủ LDP của ông Abe, để bổ sung phần nhận định về mối nguy từ Trung Quốc. Văn kiện vừa xuất hiện là gây phản ứng gay gắt từ phía Bắc Kinh. Ngay hôm sau, Bộ Ngoại giao Bắc Kinh kết án việc Nhật Bản đe dọa chủ quyền của Trung Quốc trên các quần đảo có tranh chấp và yêu cầu Tokyo chấm dứt “những trò nguy hiểm”.

Cả phần bối cảnh rất dài ở trên chỉ dễ dẫn tới động thái Bắc Kinh, mâu thuẫn Hoa-Nhật, và lập trường của Mỹ.

* *

Nhật Bản là một nước không có tài nguyên, lãnh thổ là một quần đảo có bốn đảo lớn nằm giữa đại dương. Khi hữu sự, dân Nhật chỉ có một đất lùi là trôi xuống biển.

Trung Quốc là một đại cường lục địa ngày nay bị lệ thuộc vào thế giới bên ngoài như chưa từng bị trong mấy ngàn năm lịch sử. Vì vậy, thế hệ lãnh đạo mới là Chủ tịch Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường – “Thế hệ Tập-Lý” – mới vạch ra “Con Đường Tơ Lụa của Thế kỳ 21”. Chiến lược bành trướng và củng cố này gồm có “Nhất Đới” là các đường lộ vận trên đất liền để qua Trung Á, Trung Đông là vào tới Âu Châu; phần kia là “Nhất Lộ”, đường vận chuyển trên biển nối liền các thương cảng và quân cảng Trung Quốc trên vùng biển Hoa Đông và Hoa Nam của họ với các dòng hải lưu trên vùng biển Đông Nam Á qua Ấn Độ Dương rồi Địa Trung Hải. Bạch thư Quốc phòng của Bắc Kinh được công bố hôm 26 Tháng Năm đã khẳng định quyền bảo vệ quân sự của Trung Quốc trên các ngả giao lưu đó. “Hạch tâm nghĩa lợi” hay quyền lợi cốt lõi là đấy.

Hóa ra, vì sợ bị thiên hạ phong tỏa những đường yết hầu ngoài biển cận duyên, Bắc Kinh bèn “tiên hạ thủ” là mở rộng vùng định vị phòng không ADIZ rồi chiếm đóng và củng cố các quần đảo đang có tranh chấp chủ quyền với các lân bang để làm căn cứ quân sự trong một vùng trái độn họ đòi kiểm soát.

Trong khung cảnh đó, mâu thuẫn và xung đột với Nhật là điều dễ xảy ra.

Theo phép suy bụng ta ra bụng người, Bắc Kinh không tin rằng Hoa Kỳ sẽ ra tay bảo vệ quyền lợi và nhân sự của Trung Quốc khi gặp nạn ở bên ngoài và lại còn có khả năng khống chế các eo biển thông thương tại vùng biển Đông Nam Á để phong tỏa kinh tế Trung Quốc. Nhưng Bắc Kinh cũng cho rằng Hoa Kỳ chỉ muốn duy trì nguyên trạng tự do lưu thông trong khu vực chứ không muốn trực tiếp khai chiến với mình. Chỉ cần nêu ra những rủi ro và tổn thất về phía Hoa Kỳ thì Bắc Kinh cũng tránh được một trận Mỹ-Hoa chinh chiến.

Và hình như Hoa Kỳ của Barack Obama ứng xử như vậy thật. Việc Mỹ tái phối trí phương tiện quân sự qua biển Thái Bình như Tổng trưởng Quốc phòng thời ấy là Lenon Panetta thông báo từ năm 2012 vẫn chưa tiến hành.

Nhưng Nhật Bản lại khác. Chính quyền Shinzo Abe nói và làm với những phương tiện quân sự hiện đại hơn Trung Quốc, và Tokyo còn ra sức phổ biến võ khí phòng thủ cho các nước trong vùng. Nỗi sợ hãi là con đường hai chiều và sự sợ hãi của ngươi lại làm ta hãi sợ!

Hai cường quốc Á Châu có cùng một nỗi lo vì có cùng loại vấn đề. Và đấy là mới mối nguy tại Đông Á.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.