Hôm nay,  

Mùa Vu Lan

09/08/201507:51:00(Xem: 5539)

MÙA VU LAN

 

Nguyễn Thượng Chánh, DVM

 

 

 

Từ trước tới nay nhiều người thường nghĩ rằng bản năng mẫu tử (instinct maternel) là một khả năng thiên phú và tự nhiên ở tất cả mọi người mẹ, nhưng thực tế đôi khi không đúng như vậy ở một số người đàn bà.

Các nhà tâm lý học nghĩ rằng danh từ bản năng rất đúng ở thú vật nhưng không mấy phù hợp ở loài người.

 

                                                               ***

 

blank

                                                          

Thật vậy tùy theo loài, để sinh tồn và duy trì nòi giống mà thú mẹ có những cách nuôi dưỡng, săn sóc và bảo vệ thú con khác nhau.

Con người là một sinh vật thượng đẳng nên khác biệt hơn với thú vật. Ngoài bản năng ra chúng ta còn có tình yêu thương.

Tình mẫu tử là một tình yêu thương vô bờ bến, hoàn toàn trọn vẹn, nhằm mục đích thỏa mãn mọi nhu cầu và ý muốn của đứa con.

Tình mẫu tử ở người mẹ có thể đã nhen nhúm từ lúc đứa con chưa chào đời.

Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình. Mẹ ước mong khi con ra đời con  được mọi bề hạnh phúc.

Hạnh phúc của con cũng chính là hạnh phúc của mẹ. Đó là chu trình cho và nhận ở người mẹ mà các bác sĩ tâm lý thiếu nhi (pédopsychiatre) gọi là cycle du don.

 

La maternité psychique, c'est cette dimension d'échange et de partage d'univers de totalité que l'un et l'autre se donnent, se le donnant dans le cadre de ce que l'on appelle dans ce livre, le cycle du don. (« Quand les femmes ne naissent pas mères » Jean Marie Delassus, Pédopsychiatre).

 

 

 Bản năng mẫu tử do thụ đắc?

 

Lúc vừa mới sinh xong, người mẹ thật sự chưa có đủ thời gian để tìm hiểu và cảm nhận được mùi da thịt cũng như tiếng khóc đặc biệt của con mình.

Trong nhiều trường hợp, khoa học cho rằng bản năng mẫu tử được xây dựng từ những tiến trình phức tạp của hệ thần kinh trung ương đồng thời cũng nhờ vào khả năng tri giác đặc biệt của con người và thông qua một giai đoạn học tập (apprentissage) bao gồm sự tiếp xúc trực tiếp, ôm ấp, cho bú, chăm sóc và nuôi dưỡng đứa con mới sinh ra.

  

Chuyện trao nhầm con tại Cộng hòa Czech

 
Câu chuyện trao nhầm con đã xảy ra vào ngày 9 tháng 12, 2006 tại  bệnh viện Trebic, cách thủ đô Prague 165 km về phía Đông Nam, thuộc Cộng hòa Czech đã làm cho các bậc cha mẹ phải suy nghĩ và lo sợ.

Một bữa nọ, tại khu hộ sản, y tá trao lộn hai cháu gái Nikola và Veronika vừa mới được sinh ra từ hai bà mẹ khác nhau. Nghĩa là con của bà nầy lại bị giao lộn cho bà kia.

Hai sản phụ hoàn toàn không hay biết gì hết và theo bản năng mẫu tử cả hai bà mẹ đều dễ dàng chấp nhận, yêu thương hết mực đứa bé mà mình đang ôm ấp trong tay như chính con mình đẻ ra.

 

Bản năng mẫu tử do bẩm sinh?

 

Nếu theo như lời truyền tụng trong dân gian, thì bất cứ người mẹ nào cũng có thể dễ dàng nhận biết bằng trực giác đứa con mình sinh ra.

Phải chăng, có một sợi dây thiên liêng vô hình gắn liền mẹ với con. Đó là bản năng mẫu tử.

Người ta tự hỏi, vậy tại sao trong trường hợp nhầm lẫn ở bệnh viện Trebic, cả hai bà mẹ đều không phát hiện ra được sự kiện là mình đang nuôi con của người khác trong suốt nhiều tháng trời?

 

Cảm quan ở người đàn ông thì lại khác. Anh Jaroslava, nhận thấy sao càng ngày bé Nikola,  càng không giống hai vợ chồng anh vì cháu có tóc vàng mắt xanh trong khi anh chị thì có màu sẫm hơn.

Linh tính thôi thúc anh ta nhờ một phòng thí nghiệm tư làm test DNA để xác định phụ hệ và anh ta đã nghi đúng. Kết quả thử nghiệm cho biết dứa bé không có dấu ấn DNA của anh ta. Vợ anh là Libor Broza sau đó cũng quyết định thử test DNA và kết quả cho thấy chị cũng không phải là mẹ của bé Nikola.

Vậy mà từ mấy tháng nay hai vợ chồng cứ tưởng đâu bé Nikola là con ruột của họ nhưng thật ra lại không phải như vậy. Đây là một cơn ác mộng cho bất cứ cha mẹ nào.

Bệnh viện nhìn nhận đã có sự nhầm lẫn nhưng không hiểu lý do tại sao. Các thủ tục ghi dấu  hài nhi vừa chào đời đã được thực hiện đúng như quy định. Biến cố nầy đã làm cho dân chúng Czech hoang mang và tức giận.

Sau khi điều tra kỹ hơn, bệnh viện bắt buộc phải cho thi hành kỷ luật đối với một số nhân viên sai trái. Hai y tá bị sa thải, hai ngưòi khác bị thuyên chuyển công tác và ba nhân viên bị khiển trách hành chánh.

Lễ giao trả các em cho cha mẹ ruột được dự trù vào ngày Tết Dương lịch nhưng được thực hiện sớm hơn. Theo lời khuyên của các nhà tâm lý học, hai cháu cần nên được giao lại cho cha mẹ đẻ của chúng càng sớm càng tốt để  hạn chế bớt sự gắn bó tình cảm giữa các em và cha mẹ nuôi càng ngày càng trở nên sâu đậm hơn theo thời gian.

Cuối cùng sự trao đổi đã được thực hiện vài ngày trước ngày sinh nhật đầu tiên của hai em . Các em được cha mẹ ruột lãnh về.

Theo phán quyết của tòa án, bệnh viện phải đền bù một số tiền khá lớn cho cả hai gia đình kém may mắn để xoa dịu phần nào những khủng hoảng tinh thần và xáo trộn tâm lý mà họ đã phải chịu đựng từ nhiều tháng qua.

 

Bản năng mẫu tử ở người mẹ là một vấn đề vô cùng phức tạp.

 

 Sarah Blaffer Hrdy, một nhà nhân chủng học thuộc Hàn Lâm Viện Khoa học Hoa Kỳ cho rằng bản năng mẫu tử do môi trường và xã hội tạo ra.

 

Vào thế kỷ thứ 18 tại Âu Châu luật bắt buộc các sản phụ phải đi làm việc ngay khi họ vừa mới sanh xong. Sự kiện nầy khiến một vài loại hormones cá biệt không kịp xuất hiện ra để giúp vào việc xây dựng tình cảm gắn bó giữa mẹ và con.

 blank

 

Một khảo cứu thực hiện tại Paris vào năm 1850 cho biết nếu để người mẹ cho con bú trong vòng 18 ngày liên tục thì vấn đề bỏ con sẽ giảm đi được 10%.

 Nếu nói rằng tất cả phụ nữ dều có bản năng mẫu tử một cách bẫm sinh vậy tại sao có nhiều bà mẹ, lại bỏ phế con cái, hành hạ chúng, đem cho cô nhi viện và thậm chí có khi còn đem bán con mình cho người khác.

Cũng có những người mẹ không có lương tâm, vô cùng tàn ác, nhẫn tâm giết chết con của họ sinh ra, như trường hợp gần đây bên Pháp có vụ bà mẹ giết 8 đứa con.

Thật khó hiểu!

  

Thú vật: tình mẫu tử hay hóa học? 

 Để sinh tồn cũng như để duy trì nòi giống, thú cái được trang bị một hệ thống (thị giác, khứu giác, thính giác) giúp nó nhận biết những thú con do nó đẻ ra. Phải chăng đó là do tình mẫu tử hay là đó chỉ là do những phản ứng hóa học?

Thú mẹ cần phải nhận biết con của nó để có thể săn sóc, nuôi dưỡng, cho bú và bảo vệ.

Ở thú cái, phản xạ làm mẹ được khơi màu nhờ vào tác động của một số hormone tiết ra,lúc giao hợp, lúc thụ tinh, lúc đẻ trứng ( rùa, chim…) hay lúc sinh sản (thí dụ chó,mèo  heo,bò…) hoặc khi có sự hiện diện của thú mồ côi thuộc một chủng loại khác.

Ở các loài côn trùng sống thành xã hội cao như loài ong và gồm có ong chúa (để đẻ), ong đực  để giao giống với ông chúa và ong thợ có bổn phận chăm lo cung cấp thức ăn để nuôi dưỡng cho cả tổ ong mà đặc biệt là các ong non hay ấu trùng (larves). Ong thợ chiếm đa số. Đó là những ong cái nhưng không có khả năng sinh sản.

Nhờ vào các mùi hương đặc biệt có tên là phéromones xuất phát từ ong non nên các ong trưởng thành có thể xác định được vị trí, phái tính, cũng như giai đoạn tăng trưởng của thế hệ ong non để nuôi dưỡng.

Ong chúa cũng tiết ra mùi hương đặc biệt QMB (Queen mandibular pheromone) lúc đang bay để quyến rủ các ong đực xáp lại phối giống.

 

A brood pheromone identified in honeybee larvae has primer and releaser pheromone effects on adult bees

Bees are also well known for communicating through the use of pheromones. Another widely identified chemical signal in bees is the Queen Mandibular Pheromone (QMP). This pheromone ensures that the queen is the only reproductive female in the hive by compromising the reproductive systems of worker bees. It also provides an attractant signal to the drones.

 

Ở loài hũu nhũ Phéromones là những tính hiệu hóa học được cảm nhận tại một bộ phận đặc biệt gọi là voméronasal trong mũi.Từ đó, các tính hiệu được truyền về những trung khu đặc biệt trong não bộ.

Ở người, phéromone hay là mùi đặc biêt tiết ra từ thân thể của đàn bà hay của đàn ông. Chính  hương tình nầy có khả năng kích thích, và gợi hứng ở người khác phái tính.

Sự tổng hợp phéromones ở ong non được chỉ định bởi những di thể (genes) cá biệt của loài.

Bản năng ong thợ nhận biết ấu trùng có thể được xem là lập tức hay bẩm sinh.

 

Ở loài bò, hormones cũng đóng một vai trò quan trọng trong hành vi làm mẹ của bò cái. Hormone oestradiol giúp co thắt âm hộ trong lúc đẻ.

 

Ở dê cái, sự kích thìch âm hộ lúc đẻ kéo theo sự tiết ra hai loại hormones

- noradrenaline, giúp dê mẹ ghi nhớ mùi dê con khi liếm .

-oxytocine giúp tạo nên những dây liên lạc mẹ con cũng như giúp vào việc cho con bú.

 

Mối dây liên lạc đặc biệt giữa thú mẹ và thú con được thiết lập rất nhanh chóng lúc thú mẹ vừa đẻ xong vì vậy việc gởi thú mồ côi vào chung bầy để bú là một vấn đề rất ư là khó khăn.

 

Ở cừu, sau khi đẻ cừu cái biết nhận diện ngay những con nào là con của nó vừa mới đẻ ra để săn sóc và cho bú đồng thời cũng để loại bỏ ra những con khác bầy.

Khoa học gọi hiện tượng nầy la bonding, có được nhờ vào tác dụng của một vài loại hormones phối hợp với vài tính hiệu từ cừu con mà quan trọng nhất là mùi của nó.

 

Thú cái mới đẻ, đang cho bú hoặc trong thời gian nuôi con đều có bản năng mẫu tử rất nổi bật.

 Để bảo vệ con, chúng có khuynh hướng thường hay tấn công hoặc cắn những ai muốn xáp lại gần chuồng vì vậy rất nguy hiểm.

 

Cũng như ở người, hiện tượng bỏ con, bỏ ổ ở thú vật cũng có thể xảy ra, tuy rằng rất hiếm thấy.

 

Hiện tượng mèo cái cắn chết con, ăn thịt con cũng đôi khi thấy xảy ra. Có một số giả thuyết như : đây có thể là một bản năng tự vệ vì mèo cảm thấy bị đe dọa, lo âu,  mèo con có mùi lạ, khác thường (vì bị chúng ta sờ mó vào), hay có những mèo con ốm yếu bệnh hoạn nên mèo mẹ cần phải cắn chết bớt./.

 

 

Tham khảo:

 

-Myriam Rebeyrotte. Reflexiences. La relation mère- petit est elle innée ou acquise

http://www.reflexiences.com/dossier/142/la-relation-mere-petit-est-elle-innee-ou-acquise-/

 

- Richard H. Porter et al Developmental Psychobiology

Volume 24, Issue 3, pages 151–158, April 1991

http://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1002/dev.420240302/abstract

 

-Chez l’animal : amour  maternel ou chimie?

http://www.reflexiences.com/dossier/142/la-relation-mere-petit-est-elle-innee-ou-acquise-/2/chez-l-animal-amour-maternel-ou-chimie-/

 

-Le Nouvel observateur. L’instinct maternel existe-t-il?

http://hebdo.nouvelobs.com/sommaire/notre-epoque/090259/l-instinct-maternel-existe-t-il.html

 

-L’instinct maternel existe-t-il vraiment ?

http://www.psychologies.com/Famille/Etre-parent/Mere/Articles-et-Dossiers/L-instinct-maternel-existe-t-il-vraiment

 

-Birth mix up mother refuses to swap babies. Telegraph.co.uk

http://www.telegraph.co.uk/news/worldnews/1565861/Birth-mix-up-mother-refuses-to-swap-babies.html

 

- Dénouement de l’affaire des nouveaux-nés échangés à la maternité de Trebic

http://www.radio.cz/fr/rubrique/faits/denouement-de-laffaire-des-nouveaux-nes-echanges-a-la-maternite-de-trebic

 Montreal

 

 

 


.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trước hiện trạng kỳ thị, không chỉ bạo hành bằng lời nói, mà còn tấn công hung bạo và bắn giết khiến nhiều người đã thiệt mạng hoặc bị thương tích nặng, các chuyên gia và các nhà hoạt động đã đưa ra một số biện pháp để chống trả vấn nạn này và giúp các thành viên trong cộng đồng tự bảo vệ
Lực lượng “ăn cháo đá bát” rất đông và lan nhanh như bệnh dịch, nhưng chưa bao giờ được công khai cho dân biết để dân bàn, dân kiểm tra. Ngược lại, dân lại là nạn nhân của đám ong nuôi trong tay áo từ bao năm nay. Chúng nằm trong ngành Tuyên giáo, trước đây gọi là Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương. Sau lưng đảng còn có đội ngũ chuyên nghề nói thuê và viết mướn gồm Báo cáo viên và Dư luận viên được trả lương bằng tiền thuế của dân.
Vào sáng ngày 1 tháng 5-1975 Trung tá bác sĩ Hoàng Như Tùng, nguyên chỉ huy trưởng Quân Y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ, mặc đồ dân sự, trong tư thế quân phong, đưa tay lên chào vĩnh biêt Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lênh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4 Chiến Thuật, trước sự kinh ngạc của một nhóm sĩ quan cấp cao của bộ đội cộng sản vì sự dũng cảm của bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng. Một sĩ quan của bộ đội cộng sản mang quân hàm thiếu tá tiến đến và yêu cầu bác sĩ Hoàng Như Tùng nhận diện Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
Tôi là anh trưởng trong gia đình, với 9 đứa em cả trai lẫn gái, nên trách nhiệm thật khó khăn, từ nhân cách cho đến cuộc sống. Nhưng may mắn tôi gặp được những người anh ngoài xã hội để noi gương và học hỏi. Một trong số những nhân vật hiếm hoi đó, chính là anh Nguyễn Văn Tánh, người mà tôi đã có cơ hội được tiếp tay hỗ trợ và đồng hành cùng anh trong suốt 20 cuộc Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế Liên Hiệp Quốc tại thành phố New York từ 20 năm qua.
Tôi tha phương cầu thực gần như trọn kiếp (và may mắn lạc bước đến những nơi không thiếu bơ thừa sữa cặn) nên bất ngờ nhìn thấy mảnh đời cùng quẫn thì không khỏi chạnh lòng. Nghe tiếng mời chào khẩn thiết, nhìn những khuôn mặt khẩn cầu của đồng bào mình mà muốn ứa nước mắt.
Các định kiến tai hại đối với các phụ nữ Á Châu trong văn hóa đại chúng của Mỹ đã có từ ít nhất thế kỷ thứ 19. Từ đó, các nhà truyền giáo và binh sĩ Mỹ tại Á Châu đã xem phụ nữ mà họ gặp đó như là ngoại lai và dễ tùng phục. Các định kiến này đã ảnh hưởng luật di trú đầu tiên của Hoa Kỳ dựa vào chủng tộc, Đạo Luật 1875 Page Act, ngăn cản các phụ nữ Trung Quốc vào Hoa Kỳ. Giả thuyết chính thức là rằng, ngoại trừ được chứng minh ngược lại, các phụ nữ TQ tìm cách vào Hoa Kỳ đã thiếu tư cách đạo đức và là những gái mại dâm. Trên thực tế, nhiều người là vợ tìm cách đoàn tụ với những ông chồng là những người đã đến Hoa Kỳ trước đó. Khoảng cùng thời gian đó, các phụ nữ TQ tại San Francisco cũng bị làm dê tế thần bởi các viên chức y tế địa phương là những người sợ rằng họ sẽ lây truyền các bịnh lây lan qua đường tình dục cho các đàn ông da trắng, là những người sau đó sẽ lây lan cho các bà vợ của họ. Vào giữa thế kỷ 20, các căn cứ chiến tranh và quân sự của Hoa Kỳ tại TQ, Nhật, Phi Luật Tân,
Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn Hòa Bình, Nguyễn Xuân Phúc … quả đúng là những kẻ thuộc giới ăn trên ngồi trốc. Họ là những hạt giống đỏ được gieo trồng từ miền Bắc, và đã ươm mầm thành cây. Loại cây này, học giả Phan Khôi gọi một cách lịch sự là cây Cộng Sản. Còn dân gian thì gọi là cây cứt lợn!
Nếu đảng đủ can đảm và ông Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng còn đủ bản lĩnh của một Lãnh đạo gương mẫu trong công tác phòng, chống tham nhũng thì hãy công khai cho dân biết Tổ chức Thanh niên của đảng đã làm được những gì cho dân cho nước trong 90 năm qua. Hay ngót 7 triệu Đoàn viên TNCS chẳng làm được trò trống gì, ngoải vai trò tay sai đã tuyệt đối trung thành với đảng và với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh?
Adam Smith và Karl Marx cùng được gọi chung là kinh tế cổ điển (classical economy) tức là lao động (labour) tạo ra giá trị (value.) Khác ở chổ Smith quan niệm thị trường tự do giúp mọi người hưởng thụ giá trị lao động còn Karl Marx lên án giá trị lao động của công nhân bị tư bản bóc lột. Vào đầu thế kỷ thứ 20 xuất hiện một cách nhìn mới là giá trị (value) do nơi tiện ích (utility) thay vì từ lao động (labour). Thí dụ một người đang khát uống ly nước đầu thì thật ngon, ly thứ nhì vừa vừa còn ly thứ ba đầy bụng nuốt không vô, tức là giá trị của mỗi ly nước giảm khi nhu cầu tiện ích hạ thấp. Quan điểm này gọi là Giá Trị Biên Tế hay Marginal Value.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.