Hôm nay,  

Hạnh Ngộ Cuối Đời

03/10/201507:44:00(Xem: 7923)

Hạnh Ngộ Cuối Đời

Nguyễn Trần Diệu Hương
.

Mở Đầu: Vào thăm Thầy Nguyễn Xuân Hoàng những tháng cuối đời ở bệnh viện, ở nhà dưỡng lão, chúng tôi được Thầy kể lại hạnh ngộ tình cờ trong đời sống của Thầy với một ông bác sĩ của bệnh viện Stanford từng là một người lính Mỹ trẻ đồn trú ở Nha Trang trong những năm chiến tranh, Thầy dự định sẽ viết lại chuyện này khi khoẻ hơn. Không may, dự định đó chẳng bao giờ thành sự thật.  Xin được thay Thầy kể lại chuyện này như một nén tâm hương tưởng nhớ nhân giỗ đầu của Thầy.  – NTDH

*

Tôi trở lại bệnh viện Stanford lần này là là lần thứ bao nhiêu, tôi không còn nhớ được . Những viên thuốc giảm đau nhỏ xíu đủ màu, những lần hóa trị (chemo therapy), xạ trị (radiation therapy) có thể giúp tôi kéo dài đời sống thêm một chút, đỡ đau đớn hơn, nhưng làm cho đầu óc tôi mờ mịt, trắng xóa.


Những lần gần đây, tôi không còn tự đi được nữa, dù là đi với 3 chân (2 chân của tôi, 1 chân của baton) hay 6 chân (2 chân của tôi cộng 4 chân của cái walker). Lúc đầu, buồn kinh khủng, hụt hẫng vì thấy "lực bất tòng tâm", nhưng những cơn đau thốn từ trong xương đau ra làm mọi suy nghĩ vụn vỡ, đầu óc trống trơn, nhiều lúc không nhận ra được cả người đến thăm đứng ở cạnh giường.


Mỗi lần đến Stanford, dù là chỉ "tạm trú” vài tiếng cho một lần chemotherapy, hay "thường trú" ở đó một tuần, nửa tháng, tôi đều được đỡ từ xe nhà qua chiếc xe lăn của bệnh viện ngay ở cửa chính . Đây là một ưu tiên rất đáng buồn cho bất cứ ai được nhận.


Thường thì nhà tôi đẩy tôi qua các lối đi rộng, sạch bóng của bệnh viện . Có lần nhân viên bệnh viện đẩy tôi đi . Đôi lúc, bệnh viện quá bận rộn, tôi phải ngồi lơ ngơ, lọt thỏm trong xe lăn ở lobby chờ người có trách nhiệm đưa mình về phòng hoá trị. Sau hơn nửa năm chiến đấu không cân sức với căn bệnh sarcomas quái ác, tôi chỉ còn khoảng 110lbs (so với trọng lượng 165lbs lúc tôi còn khỏe) .


Để quên bớt nỗi đau. để có một điều gì đó yên bình trong đầu óc khi nằm trên giường trong suốt vài tiếng chemo, cho một số thuốc vào người, " dĩ độc trị độc" để các tế bào ung thư quái ác ngừng phát triển , tôi thường đem theo đọc sách dễ đọc khi vẫn còn tỉnh táo. Thường thì tôi chỉ tính táo được khoảng nửa tiếng đầu, sau đó, đầu óc tôi trắng xóa, nửa tỉnh nửa mê, cuốn sách rời khỏi tay, rơi xuống nền nhà .


Lần đó, người lượm quyển sách đặt lai ngay ngắn trên cái bàn nhỏ ở đầu giường là một ông bác sĩ chắc cũng đã bước vào độ tuổi sáu mươi. Thấy tôi mở mắt, ông cười mỉm và hỏi:


  • Ông cũng thích đọc sách về Nha Trang ?


(chắc là dù không đọc được tiếng Việt nhưng bìa sách có hai chữ Nha Trang và hình con đường Duy Tân chạy dọc theo ven biển làm ông nhận ra nội dung sách có liên quan đến thành phố thùy dương cát trắng này)


Nghe một người bản xứ nhắc về quê hương biển xanh của mình, tự dưng bao nhiêu mỏi mệt sau khi chemo tan biến, tôi nhìn ông với cái nhìn “tha hương ngộ cố tri”:


  • Tôi là người Nha Trang mà. Ông đã từng đến Nha Trang?


  • Không những đến mà còn ở đó gần một năm .


  • Ông ở đường nào?


  • Đường Khổng Tử, sau trường nữ tiểu học Âu Cơ .


  • Ông đã từng làm việc ở Nha Trang?


  • Vang,  và rất yêu thành phố ven biển đẹp, hiền hòa này.



Như được đưa về một thời trai trẻ với những kỷ niệm đẹp, ông bác sĩ người Mỹ kể cho tôi nghe về đoạn đường Duy Tân chạy dọc bờ biển đẹp nhất Nha Trang. Ông say sưa kể về những bậc thang bằng đá ong dẫn lên Tháp Bà với nhiều huyền thoại ở ngoại ô Nha Trang, về món chè nổi tiếng ở cây dầu đôi ở phía Bắc của Thành phố đã đi vào lịch sử,  đã chở che danh tướng Trịnh Phong trong phong trào Cần vương kháng chiến chống Pháp của vua  Hàm Nghi.


Lúc đó trong mắt của chúng tôi, không phải là khung cảnh bệnh viện Stanford với mùi ethanol bay thoang thoảng mà là Nha Trang thân yêu với gió biển có mang vị mặn của muối,  với tiếng sóng biển đập vào bờ cát trắng nhẹ nhàng, đều đều trong mùa hè, mạnh bạo, giận dữ trong mùa đông.


Sau đó chúng tôi còn có dịp nói chuyện với nhau vài lần nữa trong những lần đi chemo của tôi ở bệnh viện. Ông Johnson là BS trưởng khoa, công việc thường ngày của ông thiên về nghiên cứu nhiều hơn, nhưng có một vài lần khi không bị trùng thời khoá biểu, ông đến bên giường bệnh của tôi vừa theo dõi bệnh tình , vừa giúp cho bệnh nhân quên đi mọi nỗi đau thể xác khi ông kể về những ngày tuổi trẻ của ông ở Nha Trang yêu dấu của cả hai chúng tôi. Lời kể của ông đã cuốn hút, đôi mắt màu xanh xám sau tròng kính trắng cũng mang tôi về thời “làm học trò nhưng không sách cầm tay” ở sân trường Võ Tánh, ở con đường Bá Đa Lộc cây dài bóng mặt đẹp nổi tiếng ở quê tôi. Như thế đó, cả người kể lẫn người nghe đều thấy lòng mình về lại với thời tuổi trẻ mắt sáng môi tươi.


Những ngày điều trị dù nội trú, hay ngoại trú của tôi ở bệnh viện Stanford nhờ vậy mà trở nên êm đềm hơn. Những con đau thể xác trong giai đoạn cuối cùng của bệnh ung thư sarcomas vẫn kéo về gián đoạn, hay liên tục nhưng không còn làm tôi đau đớn như lúc chưa được nghe ông Johnson ôn lại thời tuổi trẻ của ông, của cả hai chúng tôi ở Nha Trang vào cuối thập niên 50 của thế kỷ trước.



Thế mới biết có những thứ thuốc tinh thần có hiệu quả cao như thế . Một lúc nào đó khoẻ hơn, tôi sẽ cố gắng viết về thứ hạnh phúc cận kề nỗi chết đặc biệt này, sẽ tả lại thật sống động nỗi đau thẩm thấu tìm gan của bệnh ung thư ở giai đoạn cuối . Không ai biết giai đoạn này với tôi nhẹ nhàng hơn nhờ một ông bác sĩ có tuổi ở bệnh viện Stanford , một người lính trẻ Mỹ đã chiến đấu, lưu trú cả năm ở quê hương tôi, và yêu quê hương tôi giống như tôi, như bao người Nha Trang đang sống đời lưu lạc …


Nếu có kiếp sau, nếu vẫn còn phải trở lại làm người với "sinh, lão, bệnh, tử", vẫn xin được làm một người Việt Nam ,một người Nha Trang dù sống bất cứ nơi đâu vẫn mang theo mùi vị của sóng biển quê nhà.


(Xin được viết thay cho Thầy Nguyễn Xuân Hoàng)

Nguyễn Trần Diệu Hương


.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.