Hôm nay,  

Về Từ Cõi Kia

24/11/201500:02:00(Xem: 10032)
Về Từ Cõi Kia
 
Truyện Ngắn Nguyễn Văn Sâm
.

blank

.

1. Chưởng đưa tay cầm ly cam vắt trước mặt. Bàn tay run run nhè nhẹ làm sóng sánh ly nước chưa được nhấc lên khỏi bàn. Tôi biết Chưởng cố kiềm chế. Mặt anh biểu lộ sự cố gắng như không muốn người chung quanh thương hại khi nhận thấy nỗi ương yếu của mình. Giây phút kinh hoàng anh mới trải còn hằn sâu trong trí, hiện tại hình ảnh đó chắc chắn diễn ra bằng sự liên tưởng khi trước mặt có những gợn sóng lăn tăn.

Tôi nói để kéo anh ra khỏi tâm trạng không có lợi, tuy thấy rằng hơi lý thuyết:

‘Mừng anh thoát nạn! Nên ngó về tương lai để sống!’

‘Thoát chết nhưng thoát nỗi ám ảnh để sống bình thường là điều cần thiết.’ Tính chen vô:

‘Tôi biết mình hư tổn tâm lý nhưng đã thấy ở đó bài học để sống tốt hơn khoảng đời còn lại.’ Chưởng chậm rãi nói sau khi uống một ngụm nước cam. Anh tiếp: ‘Thôi thì cái cảnh chết chóc không cần tả nhiều các bạn chắc đều đã tưởng tượng ra được. Mình chỉ muốn nói về sự phải làm gì trong giây phút thập tử nhứt sanh chờ phát súng kết liễu đời mình và câu chuyện năm phút tương thoa giửa cõi nầy và cõi nọ.’

Chưởng không nói là cõi tử sanh hay những từ ngữ tương tợ. Sự kiện đó làm cho chúng tôi đều sửa lại thế ngồi, chắc là tai mọi người đều đã vễnh ra… Chưởng điềm đạm đưa ly lên môi, thưởng thức chầm chậm từ hớp như để tận hưởng từng giây phút của cuộc đời. Chắc chắn anh mệt và khủng hoảng. Mấy ngày nay có thể bớt chút đỉnh nhưng vẫn còn tiềm ẩn trong từng động tác ngập ngừng.

Trong khi chờ đợi, ai nấy đều ngó vô cánh tay băng bó anh treo trước ngực. Ngực cũng bị quấn ngang dọc, một chút máu tươm ra mờ mờ ở chỗ trên đầu trái tim. Thấy chúng tôi ngó vô vị trí bị đạn, anh đưa bàn tay mặt rờ rờ lớp băng, giọng tếu:

‘Nhờ con chuột của cánh tay trái hơi lớn đở đòn nên đạn né trái tim khiến cho mình thắng thằng cha Thần Chết.’ Chưởng cười như mếu. Anh chàng nầy lúc nào cũng vậy, chuyện vui buồn, chuyện thắng thua anh nhảy tới nhảy lui, qua lại như con sóc đùa giởn với hột dẽ.

‘Bốn năm ngày nằm trong bịnh viện, dây nhợ chằng chịt, khi nào hé mắt được thì ngắm mấy cô y tá trẻ để thấy cuộc đời thiệt là tươi đẹp. Hứng chí bèn moi lục trí nhớ một bài thơ tặng vợ thấy trên internet phù hợp với hoàn cảnh khóc ba tiếng cười ba tiếng, từ đó đến giờ thường đọc cho bả nghe mỗi ngày vàibận trả ơn mưa móc:

     Một mai rũ áo ra đi,

     Chỉ là quay gót trở về cố hương.

     Tạ ơn trăm nhớ ngàn thương,

     Buông tay chỉ những vô thường thế thôi.

     (Thơ Dương Kiền.)

Chị Chưởng trong bếp vui vẻ lên tiếng để che giấu thẹn thùng:

‘Anh Chưởng khoe với bạn là mình yêu vợ đó. Bao nhiêu tuổi đầu mà còn muốn được khen.’

Chưởng gỏ ly leng keng để mọi người chú ý….

Ngoài kia tháp Eiffel danh tiếng trong bao nhiêu năm nay sáng rực mỗi khi hoàng hôn xuống, bây giờ trời đã bắt đầu nhá nhem, vẫn như mấy ngày trước, đèn đuốc tắt ngúm để tang cho Paris, để tang buồn cho lòng thù hận được lên ngôi.

.

***

.

2. Tôi đương ở trong đám đông xếp hàng dọc, chờ đợi được nhích lên từng bước, bên trái tôi thì không có hàng nào nhưng bên phải thì có hai hàng người. Trước, sau tôi đều đầy người. Thiên hạ đương chờ đợi nhích lên từ từ để tới quầy order thức ăn. Bữa nay đặc biệt bên sân vận động có sự tranh tài của hai đội bóng tròn Pháp-Đức nên khách hàng tụ lại đây đông quá xá đông. Ai ai cũng ngó mông lung, chờ đợi trong kiên nhẫn phải phép của xứ văn minh, không có sự xen hàng hay nói năng ồn ào như ở mấy tiệm trong khu phố Tàu quận 13.

Có tiếng của người nào đó, giọng Pháp Á Rập:

‘Không biết có còn món mà mình ưa thích không, Khi tới phiên mình chỉ còn lại thứ thiên hạ chê thì tức chết.’

Tiếng cười của ai đó:

‘Có thể lắm. Nhưng không chờ thì sẽ không có gì vô bụng, đêm còn dài!’

Người đứng ngang hàng với tôi lạc quan:

‘Nếu hàng hết thì người ta đã báo cho chúng mình biết rồi.’

Tôi cũng chêm vô:

‘Ở đời nên lạc quan. Như chúng mình đây, đã tới trước cửa tiệm, chắc ăn hơn người còn ở ngoài xa. Trời lại lạnh.’

Những tiếng cười vỡ vui và những cái nhúng vai. Tôi giết thời giờ bằng cách ngó chung quanh. Thiên hạ hồn nhiên như thiên nhiên sông núi. Cô gái trẻ đứng ngay sau lưng tôi nói tiếng Pháp giọng Mỹ:

“Chờ đợi cũng là cách thế tu dưỡng nội tâm và thể hiện sự thư thái.’

Tôi quay đầu lại cười thưởng câu nói thông minh của cô ta. Cô ta cười đáp lễ, nheo mắt thân thiện.

Bỗng một tràng súng nổ, âm thanh chát chúa, người ta bắt đầu nhốn nháo, rã tan, tán loạn như sóng bạc đầu đánh mạnh vô ghềnh đá. Cái đuôi người phía sau cách tôi chừng năm sáu người đã biến mất trong hoảng loạn. Tôi rùng mình sợ hãi và ngơ ngác ngó chung quanh quên hai bàn tay ôm ngang hông mình của cô gái đứng phía sau. Một tràng chát chúa khác dài hơn rít xé tai. Tôi nghe tiếng thét của cô gái và cảm nhận một sự đau buốt vô cùng trên lồng ngực. Tôi té quỵ xuống ngay tại chỗ cùng với những người mới một phút trước còn trao đổi nầy nọ, cười đùa… Hai bắp vế tôi nghe lành lạnh, ướt mẹp.

Đưa tay rờ trước ngực thấy máu chảy và cánh tay mình tê dại lần. Tôi cựa mình vì mặt và tóc quyện đầy máu của cô gái bây giờ úp trên cổ, trên má tôi. Nghe nho nhỏ như tiếng thì thào: ‘Tôi bị nặng lắm, chắc chết, nhưng anh phải nằm im.’ Một tràng súng nữa sau tiếng hô lớn như là Allahu Akbar. Allahu Akbar. Đạn bay sát bên cạnh tỏa ra hơi nóng xả tàn lửa vô đám người rên la lăn lộn. Tôi ngộ ra rằng mình phải giả chết và dùng cái đầu cô gái che chắn cho mình chút nào hay chút nấy. Những giây phút yên lặng chết chóc từng lúc từng lúc bị phá tan bằng tiếng hét lớn cuồng nộ Allahu Akbar, Allahu Akba, dẫn đường cho một tràng đạn và những tiếng thét đau đớn tiếp theo sau đó.

Hình như là hung thủ đứng phía trái tôi cách không xa lắm, chừng 3, 4 thước là cùng, bắn rất dè xẻn đạn, đối tượng là những người rên la, giẩy dụa hay còn ngồi.

Như một thần hộ mạng cho tôi, cô gái thều thào: ‘Nhắm mắt lại, nín thở!’

Tôi nhắm mắt lại, nín thở thiệt lâu để bụng mình khỏi nhấp nhô. Khi phải hít vô thì tôi hít từ từ và dùng thiệt ít không khí trong buồng phổi vì hít vô thì đau ít thôi nhưng thở ra thì sao mà đau thấu trời xanh.

Tôi tưởng tượng Thần Chết cầm cái lưỡi liềm đi quần trong quán, thấy ai còn cục cựa thì cắt đứt hồn ra khỏi xác. Rồi tôi thấy hung thủ sao bận đồ trùm đầu giống Thần Chết quá đỗi. Cái liềm bây giờ thì biến thành cây súng máy ông cầm trên tay và thản nhiên nhả đạn như là làm một bổn phận nhàm chán. Thấy mình sẵn sàng theo ông ta khi nghe tiếng bước chưn của hung thủ bước nhầu trên những xác người. Chỉ có cách độc nhứt là khinh thường, ngạo nghễ thách thức với Thần Chết mới làm cho tôi khỏi run sợ.

Nói ra xin quí bạn đừng cho là tôi baqxạo. Tôi nhắm mắt lại, kéo tâm trí ra khỏi hiện trường, tưởng tượng mình đương đứng sừng sưng trên mõm núi cao lộng gió. Tôi đã gieo vần, cấu tứ và đủ bình thản để chọn vần cũng như lẩm nhẩm trong trí để nhớ bài thơ trong trạng thái quên thực tại. Cuối cùng bài thơ cũng hoàn thành. Chắc không hay nhưng tác dụng của nó là giúp tôi thoát ra cái hiện tại kinh khủng của nửa giờ nằm chờ chết.

Cho đến khi tôi tỉnh dậy ở trong nhà thương…..

Anh chàng Tính không nhịn được, hỏi như gắt:

‘Thế còn bài thơ kia đâu ông? Thi sĩ Chưởng như vậy ngon hơn Tào Thực nhiều.’

‘Làm gì mà nóng vậy ông? Đừng làm tôi quên nha. Nó đây!’ Rồi tác giả đọc với giọng hiên ngang:
     Ta nhổ toẹt vào mặt ngươi, Thần-Chết,

     Hiểu lẽ đời Ta ngán sợ chi ngươi.

     Liềm tận cổ, xá gì, lo thêm mệt,

     Về cõi ngươi Ta không mất nụ cười.

     (Thơ NVS)
Không khí im lặng trầm lắng. Tiếng máy sưởi thì thầm nghe rõ ràng. Chừng mấy phút sau Chưởng tiếp tục câu chuyện.

Tỉnh dậy trong nhà thương tôi hỏi cầu âu người y tá đứng gần về cô gái gác đầu trên mình tôi. Anh ta trả lời với bộ mặt đưa ma là cô gái dùng thân mình cứu mạng ông chết rồi, chết trước khi chúng tôi tới nơi. Có lẽ trước cả khi hung thủ bị hạ gục.

Tôi như là muốn hét lên một tiếng lớn làm bùng vỡ căn phòng. Thiệt kỳ lạ, trong lúc mê sâu tôi thấy cô nàng rõ ràng mà. Trong chiêm bao hay trong cơn mê ngất hễ mình thấy ai rõ nét và đứng trong ánh sáng bình thường thì người đó còn đương sống. Trái lại người đã chết rồi thì hiện ra lờ mờ ở trong một không gian có vẽ âm u, hư hư thực thực.

Xin anh Tính và quí bạn khác đừng ngắt lời. Để tôi kể tiếp. Giấc mơ nầy đặc biệt lắm.

Tôi thấy mình nằm ngay đơ trên giường phủ vãi trắng. Những y tá bắt đầu tháo ra mấy dây nhợ trước kia gắn vô mạch máu tay tôi để truyền dịch. Ba, má tôi qua đời ba thập niên trước và thằng Tuấn người em chết trong tù cải tạo đã mười lăm năm nay đứng kế bên giường ngoắc tôi theo họ. Tôi nghe tiếng má tôi nói tôi nên về với người thân. Hình ảnh của ba người nầy tôi nhận ra nhưng hơi mờ và họ như đương đứng ở chỗ có ánh sáng hoàng hôn. Tôi nói là mình còn nhiều việc chưa làm xong, chưa thể đi được. Thằng Tuấn đưa tay nắm tay tôi biểu đi. Cái lạ là tay nó không đụng tay tôi nhưng lại xuyên qua tay tôi, mà lạnh buốt. Còn đương bở ngở thì thấy hiện ra ở bên kia giường cô gái Mỹ không quen đã ngã trên mình tôi và kêu tôi nằm im giả chết. Kế bên cô ta là đứa cháu ngoại gái bốn tuổi mà mỗi ngày tôi đều dắt cháu đến trường và đón cháu về nhà giữ cho đến chiều tối cha mẹ cháu lại rước. Cả hai nắm hai tay tôi dắt vô một cánh cửa sáng trưng.  Tới cửa thì tôi đi xuyên qua, bên kia là một vùng sáng chói chang. Tôi chóa mắt và giựt mình thức dậy, dẫy dụa thiếu điều rớt xuống giường.

Chuyện sau đó thì thường thôi. Các y tá đương gắn lại những dây nhợ. Hai ba bác sĩ lăng xăng… Tôi hỏi tin tức nầy nọ, an ủi vợ con, rờ đầu cảm ơn đứa cháu gái đương đứng bên giường ngó ông ngoại chăm chăm. Tôi không thể giải thích làm sao cháu lại có thể đi vào giấc mê của tôi. Cháu còn quá trẻ chưa nhuốm ô uế gì của cuộc đời chăng?

Tôi nghĩ như vầy nè! Có một sự tranh giành giửa người cõi kia và người cõi nầy khi một bịnh nhơn nào đó tới tình trạng cuối cùng. Cháu gái tôi và cô gái Mỹ là người cõi nầy. Vậy tại sao cô ta lại phải ra đi?  Khôgn hiểu nôi! Thôi thì coi như Bề Trên cần thêm một người tốt nữa cho công việc ở cõi kia. Tôi tự an ủi như vậy về sự lìa đời của thần hộ mạng mình.

Còn về việc tại sao cô gái Mỹ kia lại là thần hộ mạng của tôi thì chịu thua không thể giải thích được.

Trầm, với bản tánh như cái tên của mình, nói trong tiếng thở dài mà tất cả chúng tôi đều cho là có ý nghĩa:  ‘Những cái chết tức thời, dính dáng xa lắc xa lơ tới nguyên nhơn thiệt là vô lý. Nhưng những người còn sống, dầu ở đâu cũng vậy, phải sống đời mình sao cho có nghĩa lý.’

Tôi biết tánh Trầm nên không hỏi truy bức, nhưng với tôi đó là tùy theo quan niệm sống của từng người. Vật chất hay tinh thần mà thôi.

Chưởng trở về từ cõi khác trên hình thể. Chúng ta, những người không có mặt ở sáu địa điểm bi kịch kia phải trở về từ cõi khác trong tâm hồn nhân sự kiện kinh hoàng vừa rồi. Câu nói của Đức mấy năm trước khi chúng tôi bắt đầu thân nhau ù ù trong tai tôi: ‘Cái chết của hồn nước trong tâm thức mới thiệt sự ghê rợn. Nó làm chết một số đông không thể đếm được.’ Tôi lập lại câu đó trong bữa tiệc nhỏ hôm nay.

Và hình như sau đó cả bốn người chúng tôi đều lặng thinh, mỗi người với những quyết định mới.

Bỗng ở cửa sổ nhà có tiếng chị Chưởng kêu lên mừng rỡ:

‘Coi kìa, tháp Eiffel đã đốt đèn lên trở lại. Mà đốt thành ba màu lá cờ của nước Pháp. Mừng quá!

Ba người chúng tôi đều chạy ra phía cửa sổ để xem cảnh rực rỡ của Paris, trong đó có ngọn tháp oai hùng tỏa sáng trên nền trời đen đậm. Chỉ riêng có Trầm, anh giống như cái tên của mình, ngồi trầm ngâm trong tư tưởng.   

.

3. Đức nói nhỏ với tôi là Chưởng thú nhận mình không biết tại sao lại có thần hộ mệnh nhưng Đức biết. Đó là những hoạt động không mệt mõi của Chưởng khi theo con tàu Đảo Ánh Sáng cứu người vượt biển. Đó là sự tham dự trường kỳ những sinh hoạt cộng đồng dầu vẫn đi làm tuần 38 tiếng như mọi người. Và nhứt là lời tự hứa sẽ mời dẫn lần lượt một trăm người đi Genève thăm đài kỷ niệm thuyền nhân và giới thiệu căn phòng lịch sử trong trụ sở Liên Hiệp Quốc, nơi hơn sáu mươi năm trước những phe phái tranh quyền đã nhẫn tâm ký kết chia cắt nước Việt Nam. Con số một trăm anh đặt ra cho chính mình nhưng hai mươi mấy năm nay chỉ mới hoàn thành độ chừng một nửa…

Tôi liếc nhìn Chưởng bằng cắp mắt xanh khi nghe Đức nói. Người bạn bị băng bó trước mặt tôi không còn là anh chàng hom hem tay run rẫy nữa mà biến hình thành một người hùng mạnh mẽ quyết đoán.

Dọn tuần trà đãi khách trước khi chia tay, chị Chưởng vừa rót nước cho chồng vừa ca nho nhỏ ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi…. Tiếng người đàn bà đã tới tuổi bắt đầu xế chiều vẫn còn gợi cảm nhờ những nốt nhạc tài hoa của người nhạc sĩ mà tôi cảm phục.

Vẫn vui tánh như lúc nào, Chưởng chọc vợ với giọng cười kéo dài, dòn tan:

‘Bà nhà đương tôi sử dụng thứ khí giới độc đáo của mình để giết thời giờ!’

Không cần nhìn hai người, tôi cũng biết rằng sau cơn mưa nước mắt của Paris, họ đã khắng khít càng khắng khít hơn, đã có một nhận thức tốt hơn về cuộc đời để bỏ qua những xấu xa kể cả lòng thù hận chủng tộc mà tôi không bao giờ nghe họ nhắc tới. Họ đương đứng thẳng dậy, tươi vui để trở thành người khác, thực hiện những gì có ý nghĩa cho chính họ, cho cuộc đời của người chung quanh.  

.

Nguyễn Văn Sâm

(Victorville, CA, Oct., 20, 2015, một tuần sau vụ Thứ Sáu 13 ở Paris)


.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.