Hôm nay,  

Niềm Tự Hào Của Bắc Ninh

17/03/201600:01:00(Xem: 8650)

Tôi là người quê gốc ở tỉnh Nam Định thuộc vùng đồng bằng sông Hồng mà ngày trước lại có tên là Trấn Sơn Nam, nhưng lại có duyên gặp gỡ quen biết với nhiều bạn hữu xuất thân từ vùng đất Bắc Ninh, Bắc Giang mà xưa kia vẫn được gọi là Trấn Kinh Bắc.Và đặc biệt trong mấy năm gần đây, tôi lại có dịp tham dự buổi Hội Ngộ Đầu Xuân do Hội Ái Hữu Bắc Ninh tại Nam California tổ chức hàng năm. Rồi còn tham gia viết bài cho Đặc San Xuân Bắc Ninh mỗi năm nữa.

Nhân dịp đầu xuân năm Bính Thân 2016 này, tôi xin viết về một vài nhân vật xuất thân từ đất Bắc Ninh mà được nhiều người mến chuộng và thật xứng đáng với cái danh hiệu là “niềm tự hào của Bắc Ninh” vậy.

1 – Trước hết là Cụ Nguyễn Trọng Tấn vị ân nhân đáng kính của người dân trong Phủ Kiến Xương, Tỉnh Thái Bình.

Cụ Nguyễn Trọng Tấn là thân phụ của các anh Nguyễn Ngọc Linh, Nguyễn Ngọc Phách, Nguyễn Ngọc Bích v.v... Các anh đều là những người rất nổi tiếng tại Việt nam trước năm 1975 cũng như tại hải ngọai hiện nay. Vào thập niên 1930, Cụ Tấn làm quan tri phủ tại Phủ Kiến Xương thuộc Tỉnh Thái Bình.

Trong thời gian làm việc tại địa phương này, Cụ đặc biệt ra tay cứu giúp tòan thể số dân trong làng Phú Mỹ thuộc phủ Kiến Xương bằng cách vận động cho họ chuộc lại các thửa đất ruộng đã bị bán hết vào tay người dân ở một làng khác – đến nỗi người dân ở đó không còn đất để cày cấy trong những vụ trồng lúa nữa. Vì thế mà người dân chỉ còn cách đi làm thuê, làm mướn cho các làng lân cận.

Với uy thế của một vị quan đứng đầu tại địa phương, Cụ Tấn một mặt vận động những người có tài sản cho dân làng vay một số tiền, một mặt làm áp lực để bắt buộc những người chủ đất mới phải cho chủ đất cũ chuộc lại đất đai mà trước đây do nợ nần túng thiếu họ đã phải bán đi. Đàng khác Cụ lại xin với cấp trên cho dân làng này được miễn khỏi phải nộp thuế nông nghiệp trong mấy năm để giúp họ phục hồi lại công chuyện làm ăn. Nhờ sự can thiệp tích cực và hiệu quả đó của Cụ, mà người dân trong làng Phú Mỹ này mới lấy lại được đất ruộng để làm kế sinh nhai lâu dài cho chính mình và cho con cháu sau này nữa.

Để tỏ lòng biết ơn đối với vị ân nhân đáng kính này, dân làng Phú Mỹ đã cùng đồng lòng với nhau mà phong cho Cụ Nguyễn Trọng Tấn là một vị Thần và lập miếu thờ vị Sinh Thần này tại địa phương xã Phú Mỹ - ngay từ lúc Cụ còn sinh tiền. Đó là một việc hiếm có do chính tập thể dân làng vì lòng biết ơn công đức lớn lao của Cụ mà họ đã có sáng kiến đứng ra trực tiếp phong cho Cụ là vị Thần của địa phương.

Chứ đây không phải là trường hợp của một vị Thần do một Sắc phong của Nhà vua ban hành - như trường hợp của các vị Thành Hòang mà thường được người dân kính bái nơi các ngôi đình riêng biệt tại các thôn làng ngày xưa.

Và rồi sau này về nghỉ hưu, thì Cụ dọn cả gia đình trở về sinh sống tại Hà nội. Đến khi được tin Cụ qua đời vào năm 1946, thì dân làng Phú Mỹ đã cử cả một phái đòan từ Thái Bình đến tận Hà nội để kính viếng linh cữu của vị Ân nhân và tham dự tang lễ tiễn đưa Cụ nữa.

Vào những năm sau 1954, thì do chính sách cuồng tín quá khích của nhà nước cộng sản ở khắp miền Bắc là triệt phá cơ sở tôn giáo như nhà thờ, chùa chiền, miếu đình - thì miếu thờ Cụ Nguyễn Trọng Tấn nói trên cũng bị chính quyền địa phương ra tay phá hủy đi nữa. Nhưng rất may, người dân trong làng đã cất giấu được một mảnh tường có ghi danh tính của Cụ – bằng cách đặt úp mặt có ghi chữ vào một bức tường của ngôi chùa trong xã. Rồi gần đây, với tình hình cởi mở thông thóang hơn tại miền quê, thì dân làng lại đã đến chùa xin lại mảnh tường đó - đồng thời họ cũng tự động kêu gọi lẫn nhau cùng góp tiền bạc, công sức để tái lập miếu thờ Cụ Nguyễn Trọng Tấn như đã làm tại địa phương đó từ thời kỳ trước năm 1945.

Và hiện nay qua thế kỷ XXI, thì các con cháu của Cụ cũng đã chung nhau góp tiền bạc để làm quỹ khuyến học giúp cho lớp trẻ trong làng thi đua học tập hầu có được tương lai bảo đảm vững vàng. Như vậy là cái mối ân tình tốt đẹp - khởi sự từ thập niên 1930 của Cụ Nguyễn Trọng Tấn xuất thân từ đất Bắc Ninh đối với người dân làng Phú Mỹ trong tỉnh Thái Bình - đang được tiếp nối với thế hệ thứ ba là lớp các người cháu của Cụ cũng như của người dân ở làng quê xưa kia mà đã từng được Cụ cứu giúp thóat khỏi cơn ngặt nghèo bĩ cực vì bị mất đất ruộng canh tác vậy.

Rõ ràng là người dân miền quê ở Thái Bình đã luôn ghi nhớ công đức của vị quan rất mực nhân hậu đạo đức này và Cụ Nguyễn Trọng Tấn thật là một nhân vật với đức độ cao cả đã làm rạng danh cho đất Bắc Ninh là quê hương bản quán của mình nữa.

2 – Nhà báo kỳ cựu Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh (1921 - 2012)

Nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh sinh quán tại thủ phủ Tỉnh Bắc Giang mà xưa kia vẫn được gọi với cái tên gồm 3 chữ đọc lên nghe rất thơ mộng,

đó là Phủ Lạng Thương. Có thể nói ông là một nhà báo có tuổi nghề lâu năm nhất của miền Nam Việt nam. Ông làm việc trong ngành báo chí kể từ cuối thập niên 1940 cho đến năm 1975. Rồi sau trên 12 năm bị cầm tù ngặt nghèo dưới chế độ cộng sản, đến khi ra tới hải ngọai vào năm 1992, ông lại tiếp tục tham gia viết những bài bình luận thời cuộc dành cho nhiều tờ báo và cả cho đài phát thanh nữa. Ông làm việc miệt mài say sưa và chỉ ngưng viết trước có vài ba tuần trước khi trút hơi thở cuối cùng tại thành phố San Jose vào tháng 8 năm 2012 do kiệt sức vì già yếu – ở vào tuổi đại thọ 92.

Ngòai chuyện viết báo, ông còn là một giảng viên dạy về môn báo chí tại các Trường Đại học Vạn Hanh và Đà Lạt. Ông được các môn sinh đặc biệt quý trọng vì đã tận tâm dìu dắt thế hệ đàn em trong ngành thông tin báo chí ở miền Nam. Ông thông thạo cả ba ngọai ngữ Anh, Pháp và Nhật ngữ. Và ông cũng đã từng giữ chức vụ Tổng Thư Ký của Việt Tấn Xã với nhiệm vụ điều khiển cả trăm nhân viên trong cơ quan này vào hồi giữa thập niên 1960. Ngòai công việc làm cho cơ quan thông tấn này của nhà nước, ông còn viết bài cho cả hàng chục tờ báo tư nhân có tiếng tăm khác nữa.

Có thể nói nhà báo Sơn Điền đã viết báo liên tục trong hơn 40 năm – chỉ trừ khỏang thời gian phải ngưng viết dưới chế độ đôc tài cộng sản – tức là từ năm 1975 đến 1992 lúc ông được tự do hành nghề ở hải ngọai. Có thể nói sự nghiệp báo chí của ông thật là lớn lao đồ sộ - cả về số lương bài viết (có thể lên tới nhiều chục ngàn bài) và cả về giá trị cao của những bài bình luận, phỏng vấn, tường thuật, biên khảo, phiên dịch – đặc biệt là những bài viết về khoa học, về vũ trụ. Có thể xếp ông vừa là một ký mục gia (a columnist) vừa là một nhà báo chuyên viết về khoa học (a science writer)

Là một nhà báo lão thành đày tài năng và kinh nghiệm, ông lại được các đồng nghiệp đánh giá cao về tính tình hòa nhã cao thượng – mà lại có tinh thần khảng khái bất khuất trước bạo quyền. Vì tính khí can trường như vậy mà ông từng bị giới cai tù giam giữ rất ngặt nghèo tàn bạo nơi phòng biệt giam trong nhiều ngày tháng tại trại tù ở vùng cao nguyên sau năm 1975.

Nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh quả thật rất xứng đáng với cái danh hiệu là một sĩ phu trí thức mà có đày đủ ba phẩm chất cao quý là “Nhân, Trí, Dũng” của người quân tử trong truyền thống ngàn xưa của dân tộc Việt Nam chúng ta vậy.

Nhân nói về thành phố Phủ Lạng Thương là sinh quán của nhà báo Sơn Điền, tôi nhớ lại trước đây đã có dịp đọc một bài viết trong Nội san của cựu học sinh Trường Bưởi & Chu Văn An xuất bản ở Sài gòn vào cuối thập niên 1960, thì tác giả (hình như là ông Đàm Quang Thiện) có ghi rằng: “Vào các thập niên 1920 – 30 tại trường tiểu học lớn nhất ở thị xã Phủ Lạng Thương, thì có một vị thày giáo rất tận tâm trong việc đào tạo các môn sinh và kết quả là hầu hết lớp học trò này đều thi đậu vào Trường Bưởi qua những kỳ thi tuyển lựa khó khăn hóc búa nhất trên xứ Bắc Kỳ vào thời kỳ Pháp thuộc trước năm 1945. Không rõ nhà báo Sơn Điền của chúng ta có phải là một trong những môn sinh xuất sắc của vị thày giáo đó chăng?

3 – Giáo sư Phạm Xuân Yêm, một nhà khoa học tài danh của Bắc Ninh.

Trên đây, tôi viết về một vị tiền bối vai vế như bậc cha bác của tôi vì Cụ Nguyễn Trọng Tấn chính là thân phụ của các anh Linh, Phách, Bích là những người bạn mà tôi luôn quí mến. Và tôi cũng đã trình bày về tấm gương sáng ngời đáng quý của một bậc đàn anh, đó là nhà báo kỳ cựu Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh.

Còn tiếp theo, tôi xin viết về một người bạn học cùng trang lứa với mình, mà lại có sự thành đạt kỳ diệu nhất trong số những bạn đồng môn tại trường Chu Văn An ở Hà nội đã trên 60 năm trước.

Đó là anh Phạm Xuân Yêm một nhà giáo từng dậy học lâu năm trong bộ môn Vật lý tại Đại học Sorbonne ở Paris. Chúng tôi học chung với nhau tại lớp Đệ Nhất ban Tóan tại trường Chu Văn An niên khóa 1953 – 54, lại ngồi cạnh nhau trong một bàn nữa – do đó mà rất thân thiết gắn bó với nhau. Kỳ thi Tú Tài phần II năm 1954, bạn Phạm Xuân Yêm lại là người đậu Thủ khoa với hạng Bình vượt trội hơn tất cả mấy trăm thí sinh chúng tôi hồi đó ở Hà nội.

Di cư vào miền Nam, chúng tôi lại cùng cư ngụ trong Khu Đại Học Xá Minh Mạng ở Chợ Lớn. Và rồi với thành tích học tập xuất sắc ở Đại Học Sài Gòn, bạn Yêm lại được cấp học bổng đi học tiếp ở bên nước Pháp từ năm 1956.

Vào năm 1970, tôi có dịp qua Pháp gặp lại bạn Yêm, thì anh đã có bằng Tiến sĩ Khoa học và được giữ lại làm Giáo sư dậy môn Vật lý tại Sorbonne. Và sau đó, cả bà xã của Yêm là chị Minh Châu cũng là Giáo sư dậy môn Hóa học ở Sorbonne. Rồi thì từ trên 10 năm nay đến lượt con trai là Phạm Xuân Huyên cũng lại là một Giáo sư dậy môn Tóan ở Sorbonne nữa. Còn cháu gái là Phạm Yên Thư thì cũng có bằng Tiến sĩ Khoa học nữa. Như vậy là cả 4 người trong cùng một gia đình, thì tất cả đều có bằng Tiến sĩ Khoa học và ba người đã là Giáo sư của Đại học Sorbonne rồi. Đó là một thành công to lớn - mà ngay trong các gia đình người Pháp chính hiệu cũng ít có trường hợp đạt được thành tích vượt trội như vậy.

Nhưng điều quan trọng hơn cả đối với một Giáo sư Đại học, đó là phải có công trình nghiên cứu có giá trị mà được các bạn đồng nghiệp công nhận và đánh giá cao. Giáo sư Phạm Xuân Yêm đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học được thực hiện trong khuôn khổ của Phòng Thí Nghiệm Vật Lý Lý Thuyết và Năng Lượng Cao (Laboratoire de Physique Théorique et Hautes Énergies = LPTHE). Những công trình này đã được công bố nơi những tập san chuyên môn hay được trình bày trong các hội nghị quốc tế về khoa học. Và qua những công trình nghiên cứu như thế, anh đã có nhiều dịp trao đổi, thảo luận với giới khoa học tại nhiều quốc gia trên thế giới nữa.

Và để cho dễ phổ biến rộng rãi, Phạm Xuân Yêm đã hợp tác với Hồ Kim Quang một vị giáo sư khác dậy học ở Canada - để cùng biên sọan một cuốn sách viết bằng tiếng Anh xuất bản năm 1998 với nhan đề là “ Elementary Particles and Their Interactions” (Hạt Cơ Bản và Những Tương Tác của Chúng). Gần đây, phía bên Trung Quốc còn xin phép các tác giả để dịch cuốn sách này sang tiếng Trung Hoa để cho số rất đông sinh viên người Hoa tham khảo học tập nữa.

Riêng đối với giới khoa học gia và sinh viên ngành Vật lý ở trong nước, thì Giáo sư Phạm Xuân Yêm luôn tìm cách hỗ trợ cho các đồng nghiệp giáo sư về bộ môn Vật lý cũng như cấp học bổng cho các sinh viên trẻ – nhằm góp phần khích lệ cho việc nghiên cứu và học tập của các thế hệ đàn em tại quê nhà Việt nam. Điển hình là trong nhiều thập niên, mỗi khi có nhà khoa học người Việt nào mà đi dự hội nghị quốc tế hay tham gia nghiên cứu tại ngọai quốc, thì họ thường nhờ đến giáo sư Yêm trong việc hướng dẫn và giới thiệu với các Viện nghiên cứu khoa học tại nhiều nước ở Âu châu và đặc biệt là ở nước Pháp. Lý do là Giáo sư Yêm có sẵn uy tín và sự quen biết mến chuộng của nhiều nhà khoa học có danh tiếng tại nhiều nơi trên thế giới.

Là người bạn thân thiết với Yêm từ trên 60 năm qua, mà mãi đến gần đây vào năm 2012 khi đến thăm và sinh sống với gia đình bạn tại nhà riêng trong thị trấn Bourg-La Reine ở ngọai ô Paris - thì tôi mới được biết bạn Yêm của mình lại là người gốc gác từ đất Bắc Ninh. Vì thế, mà tôi xin ghi lại ít điều về thành tích của Phạm Xuân Yêm và có thể nói được rằng anh quả thật xứng đáng với cái danh hiệu là niềm tự hào cho quê hương bản quán đất Bắc Ninh của cha ông mình vậy./

Costa Mesa California, cuối năm Ất Mùi 2015

Đoàn Thanh Liêm

***

Ghi chú thêm vào cuối tháng 3 năm 2016.

Tôi vừa đọc lại bài viết này, khi đang dưỡng bệnh sau cơn cảm cúm khá mệt mỏi bị mắc phải kể từ đầu tháng 3/2016 tại California. Đây cũng chính là lúc mà Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích đột ngột qua đời ngay trên chuyến bay từ Mỹ đến Manila, Phi Luật Tân để tham dự một Hội nghị quốc tê về vấn đề Biển Đông.

Vì thế, tôi thấy cần phải ghi thêm về mục I trong bài viết này, nơi viết về công lao nhân đức của Cụ Nguyễn Trọng Tấn là thân phụ của anh Bích. Tôi được chính anh Bích cho tôi biết chi tiết về chuyện này trong dịp tôi được cho trú ngụ mấy bữa tại nhà anh chị ở thành phố Springfield, Virginia vào hồi mùa xuân năm 2012.

Tôi xin ghi thêm mấy dòng này để bày tỏ lòng biết ơn đối với một người bạn đã cho mình biết thêm về nhân cách của một vị quan có lòng nhân hậu để tận tâm chăm sóc giúp đỡ cho dân làng trong lúc họan nạn thời kỳ trước năm 1945. Đây quả là một kỷ niệm thật tốt đẹp anh Bích để lại cho tôi vậy.

Một lần nữa, xin cảm ơn anh Bích.

Đoàn Thanh Liêm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.