Hôm nay,  

Đọc Đỗ Xuân Tê: Truyện Của Tôi Một Thời U Ám…

3/17/201600:01:00(View: 9786)

blank
Đỗ Xuân Tê và tuyển tập.

Đó là một tuyển tập gồm 21 truyện kể, dày 300 trang, vừa phát hành trên mạng Amazon. Đó là những truyện kể từ những cảnh đời thực, có liên hệ tới dòng thác lịch sử 30-4-1975.

Đỗ Xuân Tê viết rất nhiều đề tài, nhiều thể loại trong hơn một thập niên qua, và bây giờ chỉ chọn ra một phần nhỏ các truyện có đề tài liên hệ tới chyển biến lịch sử 1975 – một dấu mốc đã đưa tác giả vào trại tù cải tạo nhiêu năm.

Văn của họ Đỗ thư thả, ngay cả khi kể những chuyện căng thẳng, như chuyện bạn tù tự tử; ngôn ngữ từ tốn thương xót, ngay cả khi kể chuyện vợ người bạn tù phải thất thân và có con thêm với một cán bộ thuế để mưu sinh nuôi con; dòng văn chỉ ngạc nhiên bất ngờ khi ra tù, về Sài Gòn, gặp một con bé hàng xóm năm xưa đã trở thành một người nữ giang hồ và nghe cô này nói rằng cô sẵn sàng trao tặng “tình yêu” cho tác giả; truyện kể vẫn điềm tỉnh ngay cả khi ghi lại chuyện bố của người bạn lãnh án tù 5 năm trước 1975 vì “nghi ngờ chừa chấp VC” cho tới khi ông cụ sắp lìa đời mới bảo rằng cháu nên vượt biên đi, và ông cụ thực ra là bị oan vì người bạn thân tới nhà đánh cờ tướng nhiều năm chính là VC thứ thiệt và nằm trong mạng lưới tình báo Hùynh Văn Trọng.

Tuyển tập “Truyện Của Tôi Một Thời U Ám” không chỉ là chuyện riêng của Đỗ Xuân Tê, đây là truyện của cả dân tộc, chúng ta đã chứng kiến một thời, và không chỉ thế, chính chúng ta cũng là các nhân vật trong đó, hay ít nhất cũng là nhân chứng.

Độc giả dễ dàng nhận ra hình ảnh một thời quê nhà, khi những người tù cải tạo ngồi chen chúc trong hầm tàu biển chở ra Bắc, khi những người tù cải tạo đói quanh năm, khi người từ trại tù về đã chứng kiến phố phường Sài Gòn xa lạ hẳn từ người tới cảnh… và xuyên suốt cuốn sách là một nỗi buồn cho cõi người, rằng chúng ta sống như trong một cõi lưu đày dưới thế, được tác giả ghi lại với ngôn ngữ điềm đạm, từ tốn, không óan than, không phẫn nộ.

Cuộc nội chiến quốc-cộng hiển hiện trong nhiều trang giấy, nhưng đây không phải chuyện chiến tranh. Tác giả Đỗ Xuân Tê không kể chuyện chiến trường. Ông kể chuyện cõi người, không phải cõi súng. Và cõi người này, từ tình thân bạn hữu, trở thành liên lụy quốc-cộng để bố của một người bạn vào tù oan, tới những người con là sĩ quan quân lực VNCH cũng nghi nghi ngờ ngờ, tới khi ông cụ từ trần mới rõ.

Đỗ Xuân Tê kể trong “Chuyện kể từ thị trấn sương mù” nơi các trang 68-77, về ông Trịnh và ông Tâm thân nhau từ hồi di cư vào Nam. Ông Trịnh không hề biết ông Tâm là VC nằm vùng, nằm trong ổ tình báo Hùynh Văn Trọng. Ông Tâm từ Đà Lạt hễ về Sài Gòn là tới nhà ông Trịnh, ngồi chơi cờ tướng, thân thiết như tri kỷ. Khi ông Tâm bị bắt, kêu án 18 năm tù, ông Trịnh bị án 5 năm. Những người con ông Trịnh, ngay cả sĩ quan VNCH, vẫn ngờ vực, không rõ bố mình có dính gì thực sự với VC chăng. Họ Đỗ kể cuối truyện:

“…Mười hai năm sau tôi từ trại tù trở về thành phố, vật đổi sao dời người xưa cảnh cũ quay đi ngoái lại cũng chẳng còn ai. Bà vợ tôi nhắc tôi đi thăm ông Trịnh lúc này ông đang bị ung thư thời kỳ chót. Lần đầu gặp ông, ông rất vui vì chắc ông nhớ lại thời các con ông và tôi chơi chung học chung nay thì chúng đã nghìn trùng xa cách. Lần sau thì ông đã quá yếu, thăm hỏi xong bỗng ngoắc tôi lại gần, vừa ngó quanh xem không có ai, ông thều thào, anh nên tìm đường mà đi, sống với chúng nó không nổi đâu. Tôi gật đầu ra dấu tôi hiểu. Cảm xúc ngay lúc đó tôi nhận biết ông còn quí tôi và điều làm tôi nhẹ mình là ông vẫn không phải là người của phía bên kia. Người sắp chết bao giờ cũng nói thật và chí tình. Tôi cúi xuống hôn ông như một người con giống lần từ giã bố tôi. Mấy ngày sau ông mất.

Năm năm sau khi sang được Cali bằng con đường người Mỹ tìm dùm cho anh em chúng tôi những cựu tù cộng sản, tôi học lại chuyện này với mấy cậu con, các bạn tôi hình như giờ này mới thực sự hiểu bố. Quả thật trong chiến tranh cốt nhục tương tàn, người Nam kẻ Bắc kẹt giữa hai lằn đạn ngay cha con cũng khó hiểu nhau.

Có một chi tiết mà sang đây tôi mới được em thằng San cho biết, bác Tâm sau 75 từ Côn Đảo trở về, bác được tiếp đón linh đình cùng nhóm Võ Thị Thắng, sau về Đà Lạt đảng bộ ưu ái sắp xếp vào chức phó thị ủy thành phố. Có điều hai gia đình đã hết thân hình như ông Trịnh còn ấm ức điều gì đó với ông bạn vong niên mà tôi ngờ rằng vốn đã biết chẳng cùng chung lối mà sao chỗ bạn hiền nỡ tâm để họa cho nhau.”

*

Những hoàn cảnh quê nhà buồn bi thảm. Ngay cả khi tác giả sau 12 năm tù cải tạo về, vẫn nhìn thấy những chuyện dị thường trong khu phố.

Trong truyện “Mụ Chó” ở các trang 90-102, Đỗ Xuân Tê kể:

“Không biết người ta gọi người đàn bà này là Mụ Chó từ hồi nào. Chỉ biết từ khi chuyển về sống ở cư xá tôi, thì biệt danh này đã phổ biến khá rộng rãi. Từ trẻ con hàng xóm đến các ông già bà cả, kể cả các cụ cao niên vốn nghiêm túc trong lời ăn tiếng nói cũng đều gọi mụ như vậy, tất nhiên cũng chỉ gọi sau lưng với nhau chứ nếu mụ nghe được thì chuyện lại khác và tất nhiên người thua cuộc không thể nào địch lại với cái miệng có gang có thép của mụ…”


Và sau 12 năm tù cải tạo, tác giả về lại khu phố:

“…Tôi trở về cư xá, sau một thập niên nhiều chuyện đổi thay, chuyện nhà, chuyện đời, chuyện xã hội, chuyện tình người. Lúc này mụ Chó đã chết, mà chết là hết chuyện, tôi chỉ hỏi thêm bé Nga chồng con ra sao. Vợ tôi cho biết sau ngày mẹ nó mất nó đi hoang, sau lấy thằng thợ hồ đẻ được đứa trai. Chồng không nuôi nổi, nó tự lo thân, cuộc sống khó khăn thân không nuôi nổi nó tự bán thân và thành gái chơi vừa có tiền chợ vừa thỏa mãn tình dục. Thậm chí lắm bữa ế khách, nó nói, cô biết không, con phải cho không mấy thằng dân phòng, chẳng hề mắc cỡ. Chuyện hết muốn nghe, vốn còn ngây thơ, tôi chỉ hỏi, sao em không giúp lời khuyên nó, vợ tôi nói sau 75 mỗi nhà một cảnh chẳng ai khuyên được ai, dù cha hay mẹ, dù thầy hay cô…”

*

Có một truyện nhiều người biết tới, về nhật ký Đặng Thùy Trâm – cuốn này về sau được Hà Nội biên tập lại, in sách, và cho lên phim. Mức độ phóng đại tô màu của Hà Nội cho cuốn này hẳn nhiên là có, nhưng bao nhiêu phần trăm chưa rõ. Nhưng người đọc cuốn nhật ký tịch thu từ chiến trường là người từng ở tù cải tạo chung với nhân vật xưng tôi trong truyện Đỗ Xuân Tê.

Nơi trang 53-67, Đỗ Xuân Tê viết truyện “Hắn và cuốn nhật ký.”

“…Có lúc hắn cũng tự nghĩ nếu hắn có công cứu sống được cô gaí thì có thể hắn sẽ “chường mặt” để nhận sự biết ơn, đằng này ngươì chết chẳng lấy laị được, cuốn sách cũng chỉ là an uỉ phần nào nôĩ trăn trở của ngươì còn sống, đặc biệt là Mẹ của TR, một ngươì hắn chưa được một lần gặp mặt, nhưng có lòng kính trọng sâu xa bà mẹ Việt Nam này. Một bà mẹ hơn hai mươi năm chăm sóc cho ngươì chồng baị liệt cùng nôĩ nhớ thương quay quắt đứa con gaí yêu quí của mình suốt hơn 1/3 thế kỷ.

Chuyện càng ngày càng thêm phức tạp, ly kỳ. Nghe đâu cuốn nhật ký đã được dịch sang tiếng Anh, hiệu đính và bổ sung thêm vơi caí tựa đề “Đêm qua em mơ thấy hòa bình”, được nhà xuất bản Random House in ấn. Chưa hết, nhà nước còn cấp ngân phí cho dự án sản xuất một cuốn phim mang tựa đề trùng hợp vơí câu noí để đơì. Một phần ngoaị cảnh đang được quay bên miền Đông. Nghe đâu Fred được chọn đóng cho chính vai của anh. Tất nhiên thế nào chẳng có viên trung sĩ “ngụy”.Vai TR thì chưa chọn xong, bà mẹ ra điều kiện không chọn các cô gái “chân dài”, con bà phaỉ được thể hiện bằng một cô gái có học thức, đoan trang, có bản lãnh tuổi trẻ. Cộng đồng quận Cam đang theo dõi sát diễn biễn của công tác tuyên vận hải ngoaị có một không hai này.

Còn hắn quả tình hắn không muốn liên lụy thêm, hắn không muốn trở thành một “Trần Trường II”. Xin cám ơn những lời tán tụng, nếu kể là hắn có công thì như vậy đã đủ cho hắn rôì. Cũng đừng hiểu lầm về con người hắn, trước sau hắn vẫn là ngươì tị nạn và hắn muốn sống yên thân trên đất nước tạm dung này.

Sau phút hàn huyên, hai ngươì bạn đồng tù đi ăn trưa ở một nhà hàng trên đường Beach. Họ chia tay nhau trước lúc lên đèn. Trên đường về nơi tạm trú, tôi thở phào, chuyện chẳng có gì nguy hiểm và thông cảm cho hoàn cảnh của hắn. Ít ra hắn đã có ngươì để tâm sự, một điều lẽ ra Fred phải hiểu và giúp hắn.”

*

Nhà văn Đỗ xuân Tê tên thật Đỗ xuân Thảo. Xuất thân Đại học Sư Phạm Sàigòn/Ban Sử Địa khóa 1963. Cựu sĩ quan làm việc tại tổng cục CTCT. Ra hải ngoại định cư tại Nam California từ 1991. Làm guest teacher cho một số sở học vụ tại nam Cali. Hiện nghỉ hưu dành thì giờ đọc & viết lách.

Trong “Đôi dòng dẫn truyện” ở trang 7-8, Đỗ Xuân Tê viết:

“… Nếu đừng có tháng Tư, thì chắc các truyện này đã không được viết và tập sách này cũng chẳng có lý do để ra mắt bạn đọc. Hai mươi mốt câu chuyện được góp nhặt, hiệu đính sau khi đã đăng tải trên các nhật báo, tuần báo lớn tại Quận Cam (California) và xuất hiện trên nhiều trang mạng văn học nghệ thuật toàn cầu từ 10 năm nay.

“Hai truyện tiêu biểu đã nhận được giải Tưởng lệ của báo Viễn Đông viết về chuyện tù cải tạo, và giải Danh dự của Việt Báo viết về nước Mỹ. Hơn nửa số truyện đăng trên Vietbao Online dưới bút hiệu Xuân Đỗ đã có từ 100,000 tới 200,000 lượt người xem, các phản hồi nhìn chung là thuận lợi, đồng cảm.

“Tác giả hoàn toàn không chịu trách nhiệm nếu có sự trùng hợp về nhân vật, bối cảnh, thời điểm và tình huống. Nhiều cốt truyện tác giả được xem như người viết hộ sau khi đã nghe, thấy và mặc nhiên truyện của tôi chưa hẳn là truyện của tôi chưa hẳn là chuyện của tôi.

“Sách in không bán, chỉ để tặng (cho bạn bè và bất cứ độc giả nào có nhu cầu cần đọc), như một hình thức lưu dấu về một thời u ám khó quên nhân bốn mươi năm nhìn lại.

“Mọi liên lạc để nhận sách xin gửi về:
[email protected] (tác giả chịu cước phí bưu điện).”

Độc giả cũng có thể mua từ mạng Amazon.com, xin tìm “do xuan te”…

Trên Amazon, giá tuyển tập này chỉ 12 đôla, nhưng là gói trọn hơn nửa thế kỷ “một thời u ám”…

Xin chúc mừng nhà văn Đỗ Xuân Tê, người viết về một thời rất mực u ám với những dòng chữ rất mực nhân ái.

Phan Tấn Hải

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.