Hôm nay,  

Tư vấn quốc tế cho quá trình điều tra nguyên nhân thảm họa cá chết

29/07/201600:01:00(Xem: 5871)
Tư vấn quốc tế cho quá trình điều tra
nguyên nhân thảm họa cá chết
 
Thục Quyên (Save Vetnam´s Nature)
 
Những báo giấy, báo mạng, lề trái, lề phải , truyền thanh, truyền hình  của Việt Nam từ cuối tháng tư tới nay luôn loan tin nhà cầm quyền Việt Nam mời các tư vấn ngoại quốc đến để cùng với Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam điều tra thảm hoạ cá chết, như là một điểm son cho cách làm việc của những người hữu trách, và bảo đảm cho sự minh bạch của cuộc điều tra.
 
Tại sao từ chối đề nghị của Liên Hiệp Quốc giúp điều tra?
Nhà cầm quyền Việt Nam quyết liệt từ chối đề nghị giúp đỡ điều tra của Hoa Kỳ thì còn có thể nghĩ rằng, vì họ khó ăn nói với  Tập đoàn Công ty Luyện Kim MCC Trung Quốc (Metallurgical Corporation of China Ltd.), công ty thầu của Formosa Hà Tĩnh (FHT) và là thủ phạm ngay tại hiện trường mà FHT không quên nhắc tới khi nhận tội.
Nhưng từ chối cả đề nghị giúp đỡ điều tra của LHQ, một sự giúp đỡ bảo đảm vừa về chất lượng lẫn tính trung thực, thì đáng lý rõ ràng đẩy người dân Việt, dù khờ dại tới đâu, cũng phải đi tới kết luận:  giới hữu trách  không hề có ý muốn khẩn cấp tìm ra sự thật toàn vẹn, hoặc ít ra họ đang sa lầy trong một thế kẹt không còn quyền quyết định những phương thức cần làm.
 
Khi nhà cầm quyền Việt Nam loan tin chọn lựa các nhà khoa học đến từ các quốc gia Đức, Mỹ, Israel để hoạt động chung với các nhà khoa học trong nước, thì chỉ cho biết tên tuổi vài người ,  nhưng không cho biết lãnh vực hoạt động của họ có thích hợp không, và cho đến nay cũng không công bố chương trình hoạt động cũng như kết quả việc làm của họ.
Vậy mà bấy lâu cũng chẳng thấy dân chúng thắc mắc nhiều về tiêu chuẩn những nhà tư vấn quốc tế được mời đến điều tra, hoặc họ là ai, ai là người chọn họ? Ngay cả khi FHT trong thư nhận tội có viết sẽ "tìm kiếm chuyên gia quốc tế giúp đỡ để cải thiện hệ thống xử lý chất thải......" cũng không làm ai lưu ý.
  
Giáo sư Roberto Mayerle ( (đaị học Kiel/CHLB Đức)
Trong buổi đầu, một trong những nhà khoa học được mời là GS Mayerle  chuyên về địa chất ven biển và kỹ thuật. Lãnh vực của ông là  phát triển và ứng dụng các mô hình số và các hệ thống thông tin duyên hải để hỗ trợ việc quản lý các khu vực ven biển ( thí dụ những năm gần đây GS Mayerle chuyên lo chương trình đặt hệ thống ra đa tần số cao WERA để đo biến đổi về các dòng chảy và sóng tại Yantai, Bohai Sea (Sơn Đài, tỉnh Sơn Đông, biển Bột Hải, Trung Hoa). 
Cho đến nay không có thêm tin tức gì liên quan đến sự có mặt và nhiệm vụ của ông tại những vùng có hiện tượng cá chết.
  
Hai nhà tư vấn quốc tế gần đây có lên tiếng về qúa trình điều tra 
      
1/  Tiến Sĩ  Friedhelm Schroeder
Ông là một nhà hóa học Đức, nhân viên 25 năm thâm niên của Trung tâm khoa học  Helmholtz, Geesthacht, nhưng đã nghỉ việc và hiện nay là một nhà tư vấn khoa học.
Trong cuộc trao đổi với Quỹ Bảo vệ Biển Đức (1), TS cho biết tuy ông được nhà nước VN mời cộng tác trong qúa trình điều tra nhưng lại giới hạn công việc của ông chỉ được bình luận những báo cáo của các khoa học gia thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Trong khi phần có mặt, kiểm tra tại chỗ, thì chỉ hời hợt và lướt qua cho có lệ. Ông cũng không được tự lấy mẫu để nghiên cứu.
Đáng ngạc nhiên là TS Schroeder một bên cho thấy không phải là người điều tra trực tiếp nhưng lại đưa ra những lời phê bình sau đây, không thích hợp với cách phát biểu của một nhà khoa học:  Ông cho rằng vì chính sách bảo vệ môi trường không thực tế hoạt động tại Việt Nam nên "có thể tưởng tượng rằng hệ miễn dịch của Cá đã qúa yếu bởi môi trường độc hại đã kéo dài nhiều năm"nên chỉ cần "một tác nhân" nhỏ là chết hàng loạt như đã thấy. 
(Nên nhớ Cá và hải sản được xuất cảng đi khắp thế giới cho tới khi thảm họa xảy ra và được kiểm tra nghiêm ngặt bởi các nước nhập khẩu)
Để rõ ý hơn nữa, TS Schroeder còn nói là dọc theo toàn bộ vùng bờ biển (bị thảm hoạ) là những nhà máy mà hầu hết đều thải nước ô nhiễm không lọc thẳng xuống biển, và trong qúa trình điều tra, các thủ phạm tiềm năng khác đã được làm ngơ. Trong khi ông lại thấy tận mắt hệ thống lọc nước thải rất hiện đại của Formosa Hà Tĩnh, gồm cả máy đo tự động. Đó là tất cả những gì TS Schroeder quan sát khi "có mặt kiểm tra hời hợt và lướt qua cho có lệ"
Tóm lại, nhà cầm quyền Việt Nam, hiểu theo TS Schroeder, mời các nhà tư vấn quốc tế đến (không biết tốn bao nhiêu tiền của dân) nhưng không thực sự cho họ trực tiếp điều tra (ít nhất trong trường hợp TS Schroeder) và lỗi gây thảm họa phần lớn là do phía Việt Nam ô nhiễm, Formosa nếu có thì lỗi cũng chỉ là thêm chút ít vào tình trạng sẵn có .
Để cân đối sự công bình khoa học, Qũy Bảo vệ Biển Đức bên cạnh những lời phát biểu của TS Schroeder cũng nhắc tới bài chuyên khảo năm 2012 của ông Michael Zschiesche thuộc Viện Nghiên cứu Môi trường Độc lập :"Bảo vệ môi trường tại Việt Nam" trong đó nhắc tới tình trạng gian lận rất phổ biến của các nhà máy là có hai ống thải, một đặc biệt dùng khi kiểm tra định kỳ và một để xử dụng hàng ngày khi không sợ bị kiểm tra.
 
2/ Giáo sư Yasuki Maeda
GS Yasuki Maeda (Trường Đại học tổng hợp Osaka, Nhật Bản),Biomass Centre, Đại học Quốc gia Việt Nam, Hà Nộitrong một cuộc phỏng vấn của Vietnam News ngày 11/07/2016 cho biết một cách rất dè dặt:  nếu những chất độc gây hỏng hệ sinh thái biển (chỉ)  là cyanid và phenol thì ông nghĩ một sự phục hồi có lẽ không tới 30-40 năm nhưng ít ra cũng cần 10 năm. Cũng theo ông, không thể làm gì khác hơn là chờ đợi và chấm dứt không tiếp tục thải những độc tố vào biển cả.
Không tỏ ra biết chi tiết về nguyên nhân thảm họa, có lẽ vì cũng không được mời trực tiếp điều tra, GS Y.Maeda chỉ nhấn mạnh khuyên nhà cầm quyền Việt Nam và dân chúng cần phải cộng tác toàn diện với nhau trong những nổ lực cải thiện môi trường,không chỉ đuổi theo phát triển kinh tế mà phải lưu ý giữ thăng bằng giữa kinh tế và môi trường.
GS Maeda cũng cho biết Nhật Bản và Âu Châu có rất nhiều kinh nghiệm về cải thiện môi trường tại các khu vực ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm đất. Chính phủ Việt Nam nên học hỏi từ những kinh nghiệm của người đi trước để tránh lặp lại những sai lầm tương tự.
 .
Con đường thoát duy nhất: gấp rút mời Liên Hiệp Quốc vào giám sát và điều tra.
Nhà cầm quyền Việt Nam!  Trễ còn hơn không ! 
Chính các ông cũng đã thấy sợi thòng lọng MCC và Formosa càng ngày càng siết lại. 
Đổ tội " “Vấn đề cá chết bị chính trị hoá" là một lời nói vô liêm sỉ!
Hãy thả những người dân đi biểu tình vì quan tâm đến vận mệnh dân tộc!
Hãy để mọi người tự do ra cứu trợ những vùng trực tiếp bị thảm hoạ. Mọi người Việt tại hải ngoại và những dân tộc bạn đang sẵn sàng đóng góp trong cơn nguy biến.
Không còn thì giờ nữa, hãy cộng tác toàn diện với dân để thoát nạn diệt vong!
_____________________
.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.