Hôm nay,  

Ai Cập

18/12/201600:01:00(Xem: 6758)

AI CẬP

 

Lưu Na

 

Thằng Cập đâm sầm chạy tới trước mặt Tám Sề nói khe khẽ,

-Nhớ nha, tui chờ ở cái băng ghế nơi bãi đậu xe.  Mụ Tám Sề dửng mắt

-Để làm gì?

-Thì nói chuyện chơi.  Bà không thích ngồi chung bàn với mấy người khác giờ giải lao sợ họ dòm ngó.

-Ta chả có chuyện gì để nói với mi. 

-Không có chuyện gì để nói, hm, … Thằng Cập xụ mặt ngoe ngoảy hậm hực bỏ đi.

Cái đồ mất nết, mụ Tám Sề nghĩ thầm và cười một mình. 
 

Thằng này cũng láo lắm chứ đâu vừa, nó rất kiêu ngạo, tuyên bố không bao giờ đến nói chuyện trước với ai.  Mụ là người đến nói chuyện với nó trước, nhưng mụ chả giận cái “chảnh” đó của nó, vì thâm tâm mụ biết chỉ là mình thân thiện nơi chốn làm việc, thấy đông thì cũng tụ vào “tám” chứ chả có mục đích gì khác.  Nhưng mụ hiểu cái háo thắng tuổi trẻ.  Mấy mươi năm trước thì mụ cũng như nó chứ chẳng khác gì đâu.  
 

Từ hôm bắt chuyện, không biết sao thằng Cập ngày càng lân la theo sát nói đủ chuyện biển trời.  Những đồng nghiệp đồng hương mắt la mày lét dòm ngó làm mụ thấy ngượng với họ và áy náy với thằng nhỏ.  Nhịn không được mụ bảo nó,

-Ta đẻ ra được 3 thằng như mi. 

-No way, tui nhớ ba tui chưa hề fool around với đàn bà Việt Nam.  Mà bà cũng không sinh được cái giống như tui.

Đồ mất dậy, mụ Tám chửi thầm. 

Thằng nhỏ muốn nói tới bộ vó của nó.  Nó cao 1.85m, râu tóc mi mày đen biếc cong veo, không bù cho mụ chỉ có mét rưỡi với những sợi mi ngắn củn lơ thơ.  Có lần thấy nó đứng trước cái hộp công tắc nơi cột, cao ngang tầm mắt của nó, đưa tay bấm, mụ chợt nảy dạ tò mò.  Chờ nó đi khuất, mụ chạy ra chỗ đó kiễng chân với tay xem mình có với tới cái hộp.  Mụ hài lòng, cũng được, nhưng nó đã ở đâu trờ tới xòe miệng cười cười, “thì cũng đâu thấp lắm, nhưng bà không thế thiếu tui!!!
 

Nó làm việc hùng hục như trâu, bởi có sức vóc nhưng cũng bởi nó ham hoạt động, không quản ngại việc nặng nhọc.  Với nó việc nặng nhọc là tập thể dục có ăn lương.  Nhờ nó nghĩ vậy mà xếp tha hồ sai và nhân viên khác tha hồ nhàn hạ.  Mụ đã lén nhìn nó nhiều lần trong những lúc làm việc.  Phải nói là chiêm ngưỡng, vì nó rất đẹp.  Nó đi thẳng lưng, vai ngang, sải những bước dài trên đôi chân thuôn chắc.  Nó mang cái đẹp rất thể thao nhưng không thô kệch như những tay tập thể dục tạo hình hay những tay cầu thủ nhễ nhại.  Không chỉ đẹp, nó còn tỏ ra một người kỷ luật trong cuộc sống.  Nó xếp đặt giỏ thức ăn thật ngăn nắp gọn gàng, thức ăn lành mạnh đơn sơ, và quần áo tay chân luôn sạch sẽ.  Nơi nó toát ra cái đẹp thanh cao của mấy ông hoàng tử Ai Cập trên phim ảnh, không chỉ nhờ tuổi trẻ, nhờ vóc dáng trời cho, mà còn bởi tính cách tự chủ tự hào với chút háo thắng. 
 

Nó thủ thỉ, nó là thiểu số Ai Cập đạo công giáo học trường dòng chứ không phải đạo Hồi.  Nó hát cho mụ nghe một khúc nhạc Pháp vì nó học trường tiếng Pháp hồi nhỏ.  Nó khoe hễ hết giờ làm ở sở là chạy về tập thể dục rồi ra tiệm bán xe mà nó có phần hùn.  Có bữa đi pạc ty thâu đêm, sáng sớm 3 giờ rưỡi cắm đầu chạy thẳng tới sở làm.  Nó ba hoa đủ thứ, mụ ngồi nghe thấy thú vị và ngạc nhiên lắm, vì rõ ràng mụ không thể là đối tượng của nó để đánh đôi bè bạn gì cả mà tâm với tình.
 

Nhưng nó cứ cà rà quanh quẩn, và đồng nghiệp ngày càng háy hó, mụ không biết phải nói sao.  Nói sao, nó đâu có tán tỉnh gì mụ, chỉ là tán dóc.  Mụ bảo nó:

-Nè, thấy con Bạch đó không.  Hể mi có muốn bồ bịch thì cứ mà túm lấy con nhỏ đó, nó đẹp và xứng với mi lắm.

-Nhưng nó có chồng.

-Mi cũng vợ con chứ có khác, làm như là mi bận tậm chuyện đó lắm.  Nó ngoác miệng cười.

-Tui chịu, bà làm tui cườiNói chuyện với mấy đứa kia thiệt chán lắm
 

Tại chúng nó biết tỏng chú mày, mụ nghĩ thầm.  Nhưng mụ phải nhận là mình bị nó lôi cuốn.  Mỗi cử chỉ lời nói của nó đều gợi mụ nhớ đến người yêu xưa mấy mươi năm trước.  Từ cái cách mà nó xông tới hỏi mụ hôm đụng con Quyên.  Con Quyên đi ngang thấy mụ và nó đứng nói chuyện thì la to,

-Bà chị của em, thôi đừng ve vãn cái thằng bằng tuổi con mình.  Mụ ngượng, nhưng cố làm tỉnh.

-Chị bảo nó rồi, chị đẻ ra được 3 đứa như nó. 

Thằng nhỏ dương mắt nhìn vì không hiểu tiếng Việt.  Con Quyên vừa quay lưng, nó chạy đến chỗ của mụ:

-Vừa rồi Quyên nói gì với bà, có phải hắn nói xấu cho bà?  Hm, bạn tốt của bà coi bộ không muốn bà nói chuyện với tui phải không?  Nhưng bà đừng để bụng, bọn họ ghen vì tui không nói chuyện nhiều với họ đó thôi.

Lần kế, con Quyên hỏi nó:

-Bộ bả tính nhận you làm con nuôi?

-Còn lâu tui mới ưng, không cần thắc mắc chuyện của tui, nó trả treo.
 

Người yêu xưa của mụ cũng là kẻ hiếu thắng bậm trợn, cũng bảo vệ mụ trước thị phi thiên hạ, cũng luôn quẩn quanh tìm đủ chuyện nói cho mụ cười, cho mụ thấy ngày giờ qua mau.  Như nó giờ đang ngày ngày quẩn quanh.

-Nè, tui muốn bà cầm cái danh thiếp của tui, có số phone với địa chỉ đó.

Mụ lịch sự cất vào bóp, nhưng 15 phút sau nó đã trở lui:

-Bà đã dục cái thiếp của tui rồi phải không?

-Không có đâu, còn đây nè, mụ móc ra cho nó thấy.

-Tưởng bà dục rồi thì tui đưa cái khác

Nó cười ranh mãnh, mụ cũng bật cười, lòng càng nhớ cố nhân.  Nó không chỉ mang hình ảnh người xưa, nó còn nhắc nhở mối tình “đời người chỉ có một lần” của mụ.  Mụ đã già, không tơ tưởng chi ba cái chuyện tình yêu tình ma nhất là với cái thằng mình đẻ ra được.  Mụ không mơ màng gì cái chuyện nó mê mình – không đời nào có chuyện đó, nhưng mụ không thoát khỏi cái cảm xúc bồng bột mà nó gieo trong không gian mỗi khi đến gần nói chuyện cùng mụ.  Những khi nó cà rà mụ cũng không tránh khỏi những tràng cười hồn nhiên.  Đằng sau lưng mụ, dãy bàn làm việc bên kia, các mụ Tàu-Việt bắt đầu ì sèo “mê trai.”

Mấy bữa nay thằng Cập có vẻ bồn chồn bực bội.  Mụ xà tới chỗ nó làm hỏi thẳng có chuyện gì.  Thằng nhỏ mắt la mày lét: “xếp hăm hễ tui nói chuyện là sẽ đuổi.”  Mụ sặc cười, “ừa vậy ta nói mi chỉ nghe thì đâu có đuổi được phải không?”  Mụ tà tà về chỗ.
 

Cuối giờ, thằng Cập đã đứng trước mặt mụ.

-Bà đã làm được cái thứ bà muốn rồi.  Bà phải tới nói chuyện và cười thiệt to cho con nhỏ xếp hay ganh tỵ kia thấy mà mắng tui.  Bà đã giúp được nó sút trái banh vô gôn của tuiBà đã trao bọn xếp cái cớ để trù tui rồi đó …

Kèm theo với những lời cay đắng, hai đìa mắt sáng như sao của nó đầy nỗi giận dữ.  Ánh mắt nó nói rằng nó giận vì mụ, chính mụ chứ không phải ai khác, đã làm nó gặp phiền nhiễu.  Cái giận dữ và cay đắng của nó làm mụ bất chợt ứa nước mắt tủi thân.  Mụ quay lưng ra về, không dừng được cơn khóc.  Và mụ ngạc nhiên sao mình lại khóc vì một chuyện lãng xẹt như vậy.  Mụ lái xe mà đầu óc cứ rối ren muộn phiền.  Lỗi lầm của mụ đâu có gì lớn lao đến nỗi nó phải lớn tiếng như vậy?  Và, tại sao mụ phải khóc?  Nó lo mất việc, nó nổi nóng vì bị xếp cạo, nó cà khịa vì mụ là nguyên nhân… những cái đó thông cảm được, sao mụ lại thấy đau lòng?
 

Mụ vừa lái xe vừa chùi nước mắt, lòng nghĩ đến nét mặt của cố nhân.  Người ấy cũng có những lúc giận dữ ào ạt như vậy, cái giận dữ làm mụ thấy mình có tội dù mụ rất phải.  Nhưng Mụ lái xe lâu lắm mà vẫn không nhớ ra được nét mặt của cố nhân lại chỉ nhớ ánh mắt chất chứa bực bội giận hờn và đau đớn của thằng Cập.  Đời mụ không chỉ có lần đã gặp ánh mắt ấy, mà còn từng nhiều phen mang ánh mắt ấy.  Nghĩ đến hai đìa mắt của thằng Cập, mụ ước ao một lần được sống lại quãng đời tràn ngập cảm xúc, sống lại cái tuổi thanh xuân với những niềm yêu ghét lấp đầy tâm khảm phủ che đầu óc…  Mụ ngẫm nghĩ, có phải mấy ông già mê gái tơ là vì vậy – vì tuổi trẻ giúp họ sống lại sự sống đã tuột khỏi tầm tay?  Có thiệt người ta quên thân phận mình, quên cái bệ rạc của tuổi già để lao vào cái gì đã mất, người ta bằng lòng đổi tất cả và rước mọi hệ lụy chỉ để mong lấy lại đôi phút bồi hồi? 

Nước mắt đã khô, mụ bật cười, không chừng bọn đồng nghiệp nhiều chuyện kia đúng, đúng là mụ mê trai.  Ngày mai vào sở mụ sẽ đeo kiếng đen để khỏi nhìn thấy nó và để nó không thấy mắt mụ.  Ranh con, ta đẻ ra được 3 đứa như mi.

  

Lưu Na

11202016

 



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.