Hôm nay,  

Trang Sử Việt: Phan Chu Trinh

1/24/201700:01:00(View: 4904)
(Lời tâm tình: Bài viết về “Sử Việt” chỉ khái quát, không đi sâu từng chi tiết của mỗi nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung đã biên soạn. Trang Sử Việt luôn mong mỏi nhúm nhen tình tự dân tộc, niềm yêu thương quê hương và giữ gìn Việt ngữ cùng văn hóa Việt. Trang Sử Việt đăng trên Vietbao Online thứ Ba và thứ Sáu hằng tuần).
________________ 
 
PHAN CHU TRINH
(1872 - 1926)
 
Phan Chu Trinh hiệu Tây Hồ, Hy Mã, tự Tử Cán, quê Quảng Nam; phụ thân là Phan Văn Bình làm Quản cơ sơn phòng, sau tham gia phong trào Cần Vương. Năm 27 tuổi, ông học với Trần Quí Cáp và Huỳnh Thúc Kháng tại trường tỉnh. Năm 1900 đỗ Cử nhân, năm 1901 đỗ Phó bảng. Năm 1902, ông nhận chức Thừa biện bộ Lễ thời vua Thành Thái.
 
     Khi ông đọc tân thư thấy tư tưởng duy tân của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu; tư tưởng dân quyền của Rousseau, Montesquieu; “Thiên hạ đại thế luận” của Nguyễn Lộ Trạch... Và thấy các nước trên thế giới: Nhật Bản, Tây Phương về xã hội, kỹ thuật... đã tiến bộ rõ rệt, còn triều đình Huế thì thủ cựu. Ông nghĩ cần đấu tranh: “Phải mở mang dân trí cho đồng bào và xây dựng đất nước Việt Nam tiến bộ”. 
 
     Năm 1905, ông từ quan trở về hoạt động cách mạng, để tranh đấu giành lại tự do, dân chủ cho đồng bào, bằng đường lối duy tân con người, xã hội và tư tưởng dân quyền với phương châm “tự lực khai hóa”. Phương thức hoạt động của phong trào là bất bạo động, công khai hoạt động nhằm khai hóa dân tộc, Ông nghĩ phải thực thi khẩn thiết bằng cách:
 
1- Dân tộc tự cường: Thức tỉnh tinh thần tự lực tự cường, mọi người phải biết quyền lợi căn bản của một người công dân.
2- Mở mang dân trí: Bãi bỏ lối học từ chương, mở trường dạy chữ Quốc ngữ, trau dồi kiến thức khoa học, kêu gọi đồng bào cải tiến: Cắt tóc ngắn, cắt móng tay ngắn... 
3- Dân sinh: Phát triển kinh tế, hướng dẫn nhân dân khai hoang đất đai, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hóa...
 
     Ông đã viết thư yêu cầu Pháp sửa đổi chính sách cai trị hiện hành, để có thể giúp nhân dân Việt Nam từng bước tiến đến văn minh. Ông với Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi khắp miền Trung, vận động thức tỉnh dân chúng, truyền bá phong trào duy tân. Ông còn ra Bắc, đến căn cứ Yên Thế để gặp Hoàng Hoa Thám bàn bạc về đất nước.
 
Năm 1906, ông qua Quảng Đông gặp Phan Bội Châu, hai ông thảo luận về phương thức đấu tranh. Sau đó, cả hai ông cùng Cường Để sang Nhật, để nghiên cứu tình hình giáo dục, chính trị của Nhật. Về nước, ông hợp tác với các ông Lương Văn Can, Trần Quí Cáp... lập trường “Đông Kinh Nghĩa Thục”, để nhen nhúm lòng yêu nước và mở mang dân trí. 
     Năm 1907, ông ra Hà Nội tham gia giảng dạy ở trường Đông Kinh nghĩa thục, những buổi giảng dạy hay diễn thuyết của ông rất đông đảo người tham dự. Năm 1908, cuộc nổi dậy đòi giảm sưu thuế ở Quảng Nam. Pháp nghi ông chủ xướng, ông bị bắt ở Hà Nội ngày 31-3-1908, sau đó bị đày đi Côn Đảo. Hội nhân quyền Pháp can thiệp, ông được trả tự do nhưng bị quản thúc ở Mỹ Tho, ông cực lực phản đối. 
 
Năm 1911, Phan Chu Trinh cùng con trai là Phan Châu Dật qua Pháp. Tại Paris, ông viết: “Pháp-Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam. Nước Việt Nam không thể bị cô lập mà phải được ưu tiên có mối quan hệ với các nước tân tiến trên thế giới, kể cả nước Pháp. Và không thể chỉ nhìn hiện tại mà phải nhìn lại lịch sử đã qua và phải tìm hiểu phương thức phát triển sắp tới, tạo nên cách nhìn cả thời lẫn thế.” 
Ngày 3-8-1914, Đức tuyên chiến với Pháp. Chính quyền Pháp gọi Phan Châu Trinh đi lính, ông phản đối vì không phải công dân Pháp. Tháng 9-1914, chính quyền Pháp khép tội ông là gián điệp cho Đức, bắt giam tại ngục Santé (Prison de la Santé). Đến tháng 7-1915, vì không có bằng chứng nên chính quyền Pháp phải trả tự do cho ông. Ông đã soạn tập thơ “Santé thi tập” với hơn 200 bài thơ sáng tác trong tù.
 
Trong những năm sống ở Paris, ông làm nghề sửa máy ảnh, sống thanh bạch. Sau đấy, con trai ông mất, ông rất xót xa. Năm 1922, vua Khải Định đến Pháp dự cuộc đấu xảo Marseille, ông viết “Thư thất điều” kể 7 điều tội lỗi của hôn quân Khải Định, khuyên vua về nước đừng làm nhục quốc thể. Năm 1925, ông về nước cùng đồng bào vận động trả tự do cho Phan Bội Châu vì Pháp kết án tử hình. Ông sống tại Sài Gòn, đi diễn thuyết về “Quân trị chủ nghĩa”, “Đạo đức và luân lý Đông Tây”, đồng bào đến nghe rất đông đảo, hoan hô nhiệt liệt. Ông lâm bệnh mất ngày 24-3-1926!. 
 
     Những tác phẩm chính của ông: Tĩnh quốc hồn ca; Đạo đức và luân lý Đông Tây; Đông Dương Chính luận; Tây Hồ và Santé thi tập; Pháp-Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam... 
 
 *- Thiết nghĩ: Đường lối đấu tranh của 2 cụ Phan là Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu. Cả 2 cụ cùng mong mỏi giành lại độc lập cho dân tộc Việt Nam, nhưng chủ trương lại khác nhau. Đường lối đấu tranh của Phan Bội Châu thì “Trung quân ái quốc”, cương quyết đào tạo rèn luyện thanh niên về chính trị, quân sự cho vững vàng, sau đó sẽ thành lập lực lượng vũ trang để giải phóng đất nước. Cho nên, Phan Bội Châu theo đuổi khuynh hướng kháng chiến, duy trì chế độ quân chủ và trông cậy vào Nhật để chống Pháp. 
  
     Phương thức đấu tranh của Phan Chu Trinh là bất bạo động, công khai hoạt động, thay đổi tận gốc rễ về văn hóa, tâm lý, tư duy, tập quán của người Việt, phổ biến nền văn minh phương Tây: tự do, dân chủ, bình đẳng, bác ái, pháp quyền, dân quyền, nhân quyền. Phải cải cách triệt để về giáo dục, bỏ lối học từ chương, cần học Quốc ngữ, mở mang công thương nghiệp, chấn hưng công nghệ, bỏ mê tín dị đoan. Ông là người dấn thân tích cực, một chí sĩ yêu nước nồng nàn, luôn bất khuất trước mọi hoàn cảnh khó khăn.    
   
     Lập trường của ông là quyết tâm xóa bỏ chế độ phong kiến, duy tân con người và đất nước mới hy vọng giành độc lập thành công. Đáng tiếc, sự năng nổ dấn thân của ông gặp phải thế lực chủ nghĩa thực dân đang mạnh; nên lòng nhiệt huyết của ông không đem lại thành công lúc bấy giờ!. Nhưng “phong trào duy tân” của ông là một khuôn mẫu, một tấm gương sáng ngời. Ông là một nhà nho tiến bộ, yêu nước nồng nàn, đã để lại cho đời sau một tư tưởng dân chủ đích thực, đáng noi gương và trân trọng vậy?!.
     
Cảm mộ: Phan Chu Trinh
  
Phan Chu Trinh, ngẫm nghĩ duy tân!
Quyết liệt đấu tranh, xông xáo thân
Chống thuế Quảng Nam, lo lắng nước
Lập trường Nghĩa Thục, dắt dìu dân! 
Đoạ đày hoang đảo, không nao núng
Chỉ trích hôn quân, chẳng ngại ngần!
Diễn thuyết, nấu nung lòng ái quốc
Đồng bào vĩnh viễn, nhớ nhung ân!!!.
 
Nguyễn Lộc Yên


Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
Việc nhà hoạt động dân chủ Trần Huỳnh Duy Thức được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do trước thời hạn có lẽ là một trong những vấn đề đã được nội các chính quyền Biden-Harris quan tâm và vận động từ năm 2021.
Đối với triết gia Immanuel Kant, lời nói dối là “cái ác bẩm sinh sâu xa trong bản chất con người” và cần phải tránh xa ngay cả khi đó là vấn đề sống còn1. Trong tác phẩm “Deciphering Lies”, Bettina Stangneth, 2017, viết rằng: “Trong số những lý do khiến người ta nói dối vì điều đó có thể giúp họ che giấu bản thân, ẩn náu và tránh xa những người xâm phạm vùng an toàn của họ.” Stangneth cho biết thêm, “cũng không khôn ngoan khi thả trẻ em ra thế giới mà không biết rằng người khác có thể nói dối chúng.” The Wasghington Post, ban kiểm tra sự thật, cho biết: Trong bốn năm làm tổng thống thứ 45, từ 2017-2021, đến cuối nhiệm kỳ, Trump đã tích lũy 30.573 lời nói dối trong suốt nhiệm kỳ tổng thống - trung bình khoảng 21 lời tuyên bố sai lầm mỗi ngày. Từ khi thua cuộc tái ứng cử vào tay tổng thống Joe Biden cho đến giờ này, tranh cử với bà Harris, ông Trump càng gia tăng khẩu phần nói dối, phong phú đến mức độ không thể đếm cho chính xác.
Câu chuyện hoang tưởng “di dân ăn thịt chó, mèo” của Donald Trump và JD Vance gây ra nỗi sợ hãi, tạo ra nhiều kích động tiêu cực, vì nó được nói ra trước 81 triệu dân Mỹ, từ một cựu tổng thống. Những lời vô căn cứ tràn đầy định kiến và thù hận đó như một bệ phóng cho con tàu “Kỳ Thị” bay vút vào không gian của thế kỷ 21, thả ra những làn khói độc. Nó như một căn bệnh trầm kha tiềm ẩn lâu ngày, nay đúng thời đúng khắc nên phát tán và lan xa. Nói như thế có nghĩa, con tàu “Kỳ Thị” này, căn bệnh này, vốn đã có từ rất lâu đời. Nó âm ỉ, tích tụ, dồn nén theo thời gian, chực chờ đến ngày bùng nổ. Một tuần qua, người Haiti, là nạn nhân của cơn bùng phát này. Gần nửa thế kỷ trước, và cho đến tận nay, là cộng đồng người gốc Việt.
Sự trỗi dậy của những nhóm cực hữu đang làm sống lại làn sóng kỳ thị chủng tộc, một căn bệnh trầm kha chưa bao giờ thực sự chấm dứt ở Hoa Kỳ. Để thực hiện những chương trình nghị sự của mình, những người theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã thực hiện nhiều chiến lược, chiến thuật khác nhau. Trong những năm gần đây, nhiều nhà hoạt động đã cảnh báo các nhóm cực hữu đang cố sử dụng nền tảng giáo dục làm công cụ để bảo vệ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một bài viết trên trang mạng lithub.com của tác giả Jason Stanley đã phân tích sâu sắc về đề tài này.
Nhìn ở bề ngoài thì ông Benjamin Netanyahu, Thủ tướng Do Thái, đang làm cái việc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu từng làm với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 1968. Năm đó ông Thiệu bị cáo buộc là hành động để đảng Dân Chủ thua đảng Cộng Hòa còn bây giờ thì, xem ra, ông Netanyahu lại đang tháu cáy với nước cờ tương tự tuy nhiên bản chất hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
Khi còn tại chức, không ít lần, T.T Nguyễn Xuân Phúc đã khiến cho dân tình hoang mang hay bối rối khi nghe những câu chữ rất lạ kỳ: “Quảng Ninh là đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Vĩnh Phúc sẽ vươn lên trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Long An phải trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Hải Phòng là đầu tàu quan trọng của cả nước’, ‘Bình Dương phải là đầu tàu phát triển kinh tế mạnh nhất của cả nước …”
Nhưng 64 năm sau (1960-2024), đảng đã thoái hóa, biến chất. Đảng viên thì tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống tự diễn biến và tự chuyển hóa, bài bác Chủ nghĩa Mác-Lênin và cả “tư tưởng Hồ Chí Minh” nữa...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.