Hôm nay,  

Con Người Chỉ Là Tro Bụi

08/03/201700:01:00(Xem: 7022)
CON NGƯỜI CHỈ LÀ TRO BỤI
 
Chu Tất Tiến
 

Ngày thứ Tư mùng 1 tháng 4 vừa qua, toàn thể các giáo đường Công Giáo đồng loạt tổ chức Lễ Tro môt cách trịnh trọng. Các bài giảng đều nói về sự hãm mình, giữ chay, kiêng thịt, tránh các cuộc vui chơi phù hoa, nhảm nhí để đền tội. Sau nghi lễ Mình Thánh Chúa, các linh mục Chủ Tế và những người phụ tá trong nhóm Thánh Thể dùng tro để ghi dấu lên trán tất cả công đồng dân Chúa một chữ thập, nhắc nhở là “con người chỉ là tro bụi”. Một câu hát được lặp đi lặp lại trong suốt nghi lễ rắc tro: “Này người! Hãy nhớ mình là tro bụi. Một mai người sẽ trở về bụi tro.”

Nghi thức làm phép tro và xức tro bắt nguồn từ thời Cựu Ước, nghĩa là trước Chúa Giê Su giáng sinh. Hồi đó, nhận thấy đời sống từ vua quan xuống đến dân chúng đã quá tội lỗi, một số Tiên tri đã kêu gọi mọi người phải tỏ thái độ ăn năn, sám hối tội lỗi mình kẻo bị Thiên Chúa trừng phạt, bằng cách mặc áo nhặm gai, và đổ tro lên mình. Đến thời Tân Ước, Giáo Hội đã cho cử hành nghi thức sám hối này với những người tự biết mình có tội lớn phải mặc áo nhặm gai  và xức tro trên mình, sau đó, bị đuổi ra khỏi nhà thờ và tới một tu viện, làm việc đền tội. Đến ngày thứ Năm Tuần Thánh, những người hối lỗi này tụ tập trước nhà thờ, và được Đức Giám Mục tuyên bố tha tội cho họ. Từ đó, họ mới được tham gia các phép bí tích như rước lễ hay xức dầu Thánh. Về sau, Giáo Hội không tổ chức riêng cho những người có tội nữa mà toàn thể Giáo Hội, từ Đức Giáo Hoàng và tất cả giáo dân đều tham dự lễ sám hối này. Vào thế kỷ 11, Đức Giáo Hoàng và tất cả giáo dân tập họp tại nhà thờ thánh Anastasia, để làm phép tro, sau đó, Đức Giáo Hoàng và toàn thể giáo dân mặc áo nhặm, đi chân không, đi bộ đến nhà thờ thánh Sabina để Đức Giáo Hoàng làm phép giải tội chung cho tất cả mọi người. Dần dần, với thời gian, nghi thức xức tro được thực hiện đơn giản hơn, chỉ lấy tro đốt từ những chiếc lá còn lại trong Lễ Lá trước đó, và làm dấu tro trên trán hoặc trên đầu giáo hữu mà thôi.

Nhìn vào thực tế, hình thức xức tro lên đầu tu sĩ và giáo dân để ăn năn tội vẫn được thực hiện long trọng qua nhiều thế kỷ, nhưng có mấy ai tôn trọng ý nghĩa của việc xức tro này. Lịch sử Giáo Hội Công Giáo đã chứng minh rằng có vài giai đoạn, chính Giáo Hội đã suy đồi trầm trọng. Từ thế kỷ thứ 3, sau khi Công giáo đã trở thành Quốc Giáo tại Rome rồi phát triển sang các quốc gia Âu Châu khác, nhiều vị tu sĩ mang đến chức vụ rất lớn như Giám Mục, Hồng Y, và có cả vài vị Giáo Hoàng đã trở nên kiêu ngạo và hành xử như những quan tòa tuyệt đối về tín lý Công Giáo, để rồi làm ra những tội ác mà người có lương tri không thể chấp nhận được. Người ta đã bẻ cong Lời Chúa để làm theo ý họ, miễn sao là mang lợi lộc cho Giáo Hội và cho bản thân họ về mọi phương diện: tiền bạc, sắc dục, và quyền thế. Vua Chúa các nước Âu Châu và những nước Nam Mỹ thuộc địa của Tây Ban Nha hay Bồ đào Nha đã lệ thuộc toàn bộ vào sự chỉ đạo của Giáo Hội. Bên cạnh vua hay các người Nhiếp Chính Vương của từng khu vực, đều có các vị tu sĩ làm cố vấn, và những vị cố vấn này có toàn quyền can thiệp vào sự lãnh đạo quốc gia, qua nhận xét cá nhân của họ, và dưới bức bình phong là Ý Của Chúa, ngay cả việc thành lập các đạo quân mang khí giới đi giết người, gây chiến với các quốc gia không thuận theo Giáo Quyền! Có thể nói, mãi cho đến thế kỷ thứ 19, sau khi Hoàng Đế Napoleon bắt giam Giáo Hoàng Pius VII, rồi Vua nước Ý là Victor Emanuel II buộc quyền lực của Công Giáo thu hẹp lại trong phạm vi Vatican, và qua hai cuộc Đại Chiến Thế Giới, Giáo Hội Công Giáo mới chuyển hướng để trở về vai trò chân chính là Lãnh Đạo Tín Ngưỡng mà bỏ qua các vai trò lãnh đạo thế quyền. Nhưng mãi đến Công Đồng Vatican 2, do Thánh Giáo Hoàng Gioan 23 triệu tập mới là một cuộc canh tân toàn diện, tương đương với một cuộc cách mạng về mọi phương diện. Từ đó, Giáo Hội mới hòa nhập vào Đời môt cách trọn vẹn hơn.

Dĩ nhiên, một điều không thể phủ nhận là trong lúc một số lãnh đạo Giáo Hội suy trầm về Tín Lý, thì Giáo Hội lại vươn lên phong phú với nhiều bậc Thánh đã nêu những tấm gương sáng chói cho thiên hạ khâm phục và nhiều khoa học gia, triết gia đã tạo ra những phát minh khoa học làm nền tảng cho khoa học hiện tại. Nếu không có những bậc Thánh này cũng như các nhà khoa học với những phát minh đặc biệt của họ, thì có lẽ Giáo Hội đã không đạt được con số gần 2 tỷ người như hiện nay. Từ khoa học vật lý, thiên văn, toán học, y học, sinh học, địa chất đến nhân loại học, khảo cổ học.. đều do các nhà khoa học có lòng tin vào Thiên Chúa phát minh và xây dựng nên môt nền tảng cho tất cả những phát minh khoa học sau này để phục vụ cho nhân loại. Pascal, môt thiên tài khoa học, toán học, và triết lý, người đã phát minh ra chiếc máy tính đầu tiên của loài người đã nói: “Khoa học nông cạn làm cho người ta xa Thiên Chúa, khoa học cao siêu làm cho người ta gần Thiên Chúa”. Louis Pasteur, cha đẻ của phương pháp khử trùng, tìm ra “vaccine” trị bệnh bị chó dại cắn, và nhiều phương pháp y khoa khác đã nói: “khi bạn cảm thấy không yên lòng trong một chuyến đi, môt bàn tay sẽ đưa ra giúp đỡ bạn. Nếu khi cần phải báo động cho bạn, thì Thiên Chúa sẽ tự cầm lấy cánh tay từ bạn, và sẽ hoàn tất công việc của bạn.”

Chính những nhà khoa học thiên tài này đã sống một đời đạo đức và hãm mình, không cần phải mặc áo nhặm gai, không cần phải khóc lóc than thở về tội lỗi của mình. Chính họ đã hiểu và hiểu rõ nguyên lý của sự sống con người là “tro bụi thì sẽ trở về tro bụi”. Adam, tổ tông của nhân loại, đã được Thiên Chúa dựng nên từ đất, thì nhất định sẽ trở về đất. Như vậy, mọi phù hoa trên thế gian này đểu vô nghĩa, một khi nằm xuống, tất cả những hệ lụy với người nằm xuống đó, đều tiêu tan. Chỉ có hai điều là sẽ tồn tại mãi mãi: những sự việc mà người ra đi đó đã thực hiện để phục vụ con người và Tình Yêu tức Sự Mến Thương, Lòng Khâm Phục mới không bao giờ tàn phai trong ký ức của nhân loại.

Vậy, bên cạnh việc nhắc nhở về “tro bụi sẽ trở về tro bụi”, người ta còn phải sống sao cho sau khi mình về với nguồn cội rồi, vẫn còn những Tình Yêu của người ở lại dành cho người ra đi, như thế, cuộc sống mới có giá trị, và người ra đi sẽ hãnh diện là mình đã sống một đời đáng sống.


Chu Tất Tiến



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.