Hôm nay,  

Con Người Chỉ Là Tro Bụi

08/03/201700:01:00(Xem: 7023)
CON NGƯỜI CHỈ LÀ TRO BỤI
 
Chu Tất Tiến
 

Ngày thứ Tư mùng 1 tháng 4 vừa qua, toàn thể các giáo đường Công Giáo đồng loạt tổ chức Lễ Tro môt cách trịnh trọng. Các bài giảng đều nói về sự hãm mình, giữ chay, kiêng thịt, tránh các cuộc vui chơi phù hoa, nhảm nhí để đền tội. Sau nghi lễ Mình Thánh Chúa, các linh mục Chủ Tế và những người phụ tá trong nhóm Thánh Thể dùng tro để ghi dấu lên trán tất cả công đồng dân Chúa một chữ thập, nhắc nhở là “con người chỉ là tro bụi”. Một câu hát được lặp đi lặp lại trong suốt nghi lễ rắc tro: “Này người! Hãy nhớ mình là tro bụi. Một mai người sẽ trở về bụi tro.”

Nghi thức làm phép tro và xức tro bắt nguồn từ thời Cựu Ước, nghĩa là trước Chúa Giê Su giáng sinh. Hồi đó, nhận thấy đời sống từ vua quan xuống đến dân chúng đã quá tội lỗi, một số Tiên tri đã kêu gọi mọi người phải tỏ thái độ ăn năn, sám hối tội lỗi mình kẻo bị Thiên Chúa trừng phạt, bằng cách mặc áo nhặm gai, và đổ tro lên mình. Đến thời Tân Ước, Giáo Hội đã cho cử hành nghi thức sám hối này với những người tự biết mình có tội lớn phải mặc áo nhặm gai  và xức tro trên mình, sau đó, bị đuổi ra khỏi nhà thờ và tới một tu viện, làm việc đền tội. Đến ngày thứ Năm Tuần Thánh, những người hối lỗi này tụ tập trước nhà thờ, và được Đức Giám Mục tuyên bố tha tội cho họ. Từ đó, họ mới được tham gia các phép bí tích như rước lễ hay xức dầu Thánh. Về sau, Giáo Hội không tổ chức riêng cho những người có tội nữa mà toàn thể Giáo Hội, từ Đức Giáo Hoàng và tất cả giáo dân đều tham dự lễ sám hối này. Vào thế kỷ 11, Đức Giáo Hoàng và tất cả giáo dân tập họp tại nhà thờ thánh Anastasia, để làm phép tro, sau đó, Đức Giáo Hoàng và toàn thể giáo dân mặc áo nhặm, đi chân không, đi bộ đến nhà thờ thánh Sabina để Đức Giáo Hoàng làm phép giải tội chung cho tất cả mọi người. Dần dần, với thời gian, nghi thức xức tro được thực hiện đơn giản hơn, chỉ lấy tro đốt từ những chiếc lá còn lại trong Lễ Lá trước đó, và làm dấu tro trên trán hoặc trên đầu giáo hữu mà thôi.

Nhìn vào thực tế, hình thức xức tro lên đầu tu sĩ và giáo dân để ăn năn tội vẫn được thực hiện long trọng qua nhiều thế kỷ, nhưng có mấy ai tôn trọng ý nghĩa của việc xức tro này. Lịch sử Giáo Hội Công Giáo đã chứng minh rằng có vài giai đoạn, chính Giáo Hội đã suy đồi trầm trọng. Từ thế kỷ thứ 3, sau khi Công giáo đã trở thành Quốc Giáo tại Rome rồi phát triển sang các quốc gia Âu Châu khác, nhiều vị tu sĩ mang đến chức vụ rất lớn như Giám Mục, Hồng Y, và có cả vài vị Giáo Hoàng đã trở nên kiêu ngạo và hành xử như những quan tòa tuyệt đối về tín lý Công Giáo, để rồi làm ra những tội ác mà người có lương tri không thể chấp nhận được. Người ta đã bẻ cong Lời Chúa để làm theo ý họ, miễn sao là mang lợi lộc cho Giáo Hội và cho bản thân họ về mọi phương diện: tiền bạc, sắc dục, và quyền thế. Vua Chúa các nước Âu Châu và những nước Nam Mỹ thuộc địa của Tây Ban Nha hay Bồ đào Nha đã lệ thuộc toàn bộ vào sự chỉ đạo của Giáo Hội. Bên cạnh vua hay các người Nhiếp Chính Vương của từng khu vực, đều có các vị tu sĩ làm cố vấn, và những vị cố vấn này có toàn quyền can thiệp vào sự lãnh đạo quốc gia, qua nhận xét cá nhân của họ, và dưới bức bình phong là Ý Của Chúa, ngay cả việc thành lập các đạo quân mang khí giới đi giết người, gây chiến với các quốc gia không thuận theo Giáo Quyền! Có thể nói, mãi cho đến thế kỷ thứ 19, sau khi Hoàng Đế Napoleon bắt giam Giáo Hoàng Pius VII, rồi Vua nước Ý là Victor Emanuel II buộc quyền lực của Công Giáo thu hẹp lại trong phạm vi Vatican, và qua hai cuộc Đại Chiến Thế Giới, Giáo Hội Công Giáo mới chuyển hướng để trở về vai trò chân chính là Lãnh Đạo Tín Ngưỡng mà bỏ qua các vai trò lãnh đạo thế quyền. Nhưng mãi đến Công Đồng Vatican 2, do Thánh Giáo Hoàng Gioan 23 triệu tập mới là một cuộc canh tân toàn diện, tương đương với một cuộc cách mạng về mọi phương diện. Từ đó, Giáo Hội mới hòa nhập vào Đời môt cách trọn vẹn hơn.

Dĩ nhiên, một điều không thể phủ nhận là trong lúc một số lãnh đạo Giáo Hội suy trầm về Tín Lý, thì Giáo Hội lại vươn lên phong phú với nhiều bậc Thánh đã nêu những tấm gương sáng chói cho thiên hạ khâm phục và nhiều khoa học gia, triết gia đã tạo ra những phát minh khoa học làm nền tảng cho khoa học hiện tại. Nếu không có những bậc Thánh này cũng như các nhà khoa học với những phát minh đặc biệt của họ, thì có lẽ Giáo Hội đã không đạt được con số gần 2 tỷ người như hiện nay. Từ khoa học vật lý, thiên văn, toán học, y học, sinh học, địa chất đến nhân loại học, khảo cổ học.. đều do các nhà khoa học có lòng tin vào Thiên Chúa phát minh và xây dựng nên môt nền tảng cho tất cả những phát minh khoa học sau này để phục vụ cho nhân loại. Pascal, môt thiên tài khoa học, toán học, và triết lý, người đã phát minh ra chiếc máy tính đầu tiên của loài người đã nói: “Khoa học nông cạn làm cho người ta xa Thiên Chúa, khoa học cao siêu làm cho người ta gần Thiên Chúa”. Louis Pasteur, cha đẻ của phương pháp khử trùng, tìm ra “vaccine” trị bệnh bị chó dại cắn, và nhiều phương pháp y khoa khác đã nói: “khi bạn cảm thấy không yên lòng trong một chuyến đi, môt bàn tay sẽ đưa ra giúp đỡ bạn. Nếu khi cần phải báo động cho bạn, thì Thiên Chúa sẽ tự cầm lấy cánh tay từ bạn, và sẽ hoàn tất công việc của bạn.”

Chính những nhà khoa học thiên tài này đã sống một đời đạo đức và hãm mình, không cần phải mặc áo nhặm gai, không cần phải khóc lóc than thở về tội lỗi của mình. Chính họ đã hiểu và hiểu rõ nguyên lý của sự sống con người là “tro bụi thì sẽ trở về tro bụi”. Adam, tổ tông của nhân loại, đã được Thiên Chúa dựng nên từ đất, thì nhất định sẽ trở về đất. Như vậy, mọi phù hoa trên thế gian này đểu vô nghĩa, một khi nằm xuống, tất cả những hệ lụy với người nằm xuống đó, đều tiêu tan. Chỉ có hai điều là sẽ tồn tại mãi mãi: những sự việc mà người ra đi đó đã thực hiện để phục vụ con người và Tình Yêu tức Sự Mến Thương, Lòng Khâm Phục mới không bao giờ tàn phai trong ký ức của nhân loại.

Vậy, bên cạnh việc nhắc nhở về “tro bụi sẽ trở về tro bụi”, người ta còn phải sống sao cho sau khi mình về với nguồn cội rồi, vẫn còn những Tình Yêu của người ở lại dành cho người ra đi, như thế, cuộc sống mới có giá trị, và người ra đi sẽ hãnh diện là mình đã sống một đời đáng sống.


Chu Tất Tiến



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.