Hôm nay,  

Lính Mỹ đọc thơ Lính Cộng Hòa

06/06/201710:52:00(Xem: 65321)

Thơ Linh Miền Nam do tủ sách Tiếng Quê Hương ấn hành và sẽ được giới thiệu cùng với một số sách khác của TQH trong buổi sinh hoạt văn học tại Westminster Community Center 8200 Westminster Blvd, Westminste, nam California lúc 1 giờ 30 chiều Chúa Nhật 18-6-2017.  Các nhà báo Trịnh Bình An, Mặc Lâm, Đinh Quang Anh Thái, các nhà văn Uyên Thao, Trần Phong Vũ sẽ có mặt trong buổi sinh hoạt này,


Giới thiệu: "ARVN Soldiers’ Poetry edited by Nguyễn Ngọc Bích" là bài điểm sách của David Wilson về tuyển tập "Thơ Lính Chiến Miền Nam – ARVN Soldiers' Poetry" do Nguyễn Hữu Thời sưu tầm và dịch tiếng Anh. David Wilson là một cựu quân nhân Hoa Kỳ tại Việt Nam và viết điểm sách nhiều năm trên trang "Books in Review" của hội VVA (Vietnam Veterans of America). https://vvabooks.wordpress.com/tag/vietnam-war-arvn-poetry/

blank

Nguyễn Hữu Thời, người đã chuyển ngữ tiếng Anh các bài thơ trong tác phẩm "Thơ Lính Chiến Miền Nam: ARVN Soldiers’ Poetry" cho chúng ta biết bộ sưu tập thơ này "… là sản phẩm của lính. Không phải lính ma, lính kiểng, lính bàn giấy, lính văn phòng mà là lính chiến đấu trong một cuộc chiến cam  go,  đứng  trước  một  kẻ  thù dầy dạn chiến trường, đầy mưu mẹo và không cho ta bao nhiêu lựa chọn: hoặc mình sống thì anh ta phải chết và ngược lại." (1)

Chính Nguyễn Hữu Thời cũng đã "thực sự vào sinh ra tử để có thể thông cảm sâu xa với những tình cảm mãnh liệt của những thi sĩ này, những đồng đội anh dũng của anh." (1)

Không một tác giả bài thơ nào trong tuyển tập này mà không từng cầm súng chiến đấu. "Người dịch mong tập thơ sẽ giúp độc giả có khái niệm tốt về người lính chiến miền Nam, những người suốt 20 năm ròng rã xả thân bảo vệ hòa bình và an ninh cho hơn 20 triệu dân miền Nam, một phần tư quân đội Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng, hàng trăm nghìn người đã bị tàn phế suốt cuộc đời và 300 ngàn người bị giam cầm trong các trại tập trung." (1)

Những bài thơ được dịch, và được trình bày chung với bản gốc tiếng Việt, đa số nói về những điều người lính Miền Nam đã trải qua và phơi bày một bức tranh ảm đạm về chiến tranh và giai đoạn sau chiến tranh. Lời lẽ trong thơ thường khắc nghiệt hơn lời lẽ của những bài thơ người Mỹ viết về những trải nghiệm của họ trong Chiến Tranh Việt Nam. Mực độ cay đắng cũng đậm nét hơn so với các bài thơ cựu chiến binh Mỹ, bày tỏ cảm giác bi phẫn vì bị bán đứng bởi các lợi ích chính trị.

Dưới đây là một ví dụ, "Bữa cơm ngoài Chiến Trường" của Trần Dzạ Lữ, sĩ quan tác chiến ở một đơn vị thuộc tiểu khu Kiến Hòa:


Bữa cơm ngoài Chiến Trường


Bốn năm thằng lơ láo
Áo quần rách tả tơi
Ăn cơm bên xác người
Tay bốc, tay cầm súng

Lòng nhớ mẹ phương Tây
Ý thương em chạy giặc
Xóm làng sầu khôn khuây
Đất trời thêm hiu hắt

Ăn xong, múc nước ruộng
Uống đại cho qua ngày
Quê nhà em có biết
Chinh chiến thân lưu đày?

Ăn được là điều may
Có khi hai, ba ngày
Không ăn, chẳng có uống


Ta nằm với cỏ cây


(Phong Điền 25.5.1972)


The Meal on the Battlefield


Four or five boys look helpless

In their ragged clothes

Eating besides the bodies

They pick their rice, holding the rifles

My heart’s with Mom in the Western Paradise

My mind’s with sister in the refugee camp

Villages and hamlets are inconsolably sad

The world is more deserted

After the meal, we scoop from the field

Some water we drink to get by

At home, do you know it?

The war dooms us the soldiers

It’s still lucky I can eat

Sometimes for two or three days

Having neither meal nor drink

I lie beside the plants and trees


Đây là một trong những bài thơ ngắn và nhẹ nhàng của tuyển tập.


Riêng tôi, thích những bài thơ của Trần Đắc Thắng. Mở đầu với từ "Đ.m!"


Khi dắt quân đi tắm biển


Đ.m.! Cứ bơi trên mặt biển

Để quên lúc lấy nước trên rừng

Cho lòng tan trăm ngàn vết tích

Mà đi lên dưới nắng mùa xuân (2)


Bathing in the sea with my men


Fuck! Just swim in the sea

To forget the minutes of collecting water in the jungle

To wash away one hundred thousand traces

Then come up under the spring sunlight (2)


Ngủ trên rừng


Đ.m! Sao ta vẫn ngủ rừng

Đêm trường muỗi đốt cháy da lưng

Nhưng bây không một lời than thở

Như thế lòng ta cũng đã mừng


Sleep in the jungle


Fuck! Why sleep in the jungle again?

All night, the mosquitoes bite and burn one’s back

But you boys have made no complaints

And that set my mind at rest (2)


Khóc chiến hữu

— Khóc Trung sĩ Quý, Thành và Thiếu úy Tư


Đ.m.! Tụi bây chết thật rồi

Ta nghe hồn chết giữa mưa rơi

Bao giờ ta lại ngồi uống rượu

Cùng kể nhau nghe những chuyện rời


Mourning my companions in arms

— To late Sgt. Quý, Thành and 2nd Lieut. Tư


Fuck! You boys are dead, actually

I hear my heart break in the falling rain

When shall we sit and drink again?

To tell one another the unconnected stories (2)


Tôi đặc biệt muốn giới thiệu cuốn thơ lính này tới các cựu chiến binh Hoa Kỳ thường hay phàn nàn về quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Những người lính ấy có thể không oai vệ cỡ chúng ta, nhưng chắc chắn họ đã chịu đựng và đã chịu chết nhiều hơn chúng ta tưởng. Và do đó, họ xứng đáng được tôn trọng.


Hãy đọc cuốn sách này và hãy khóc. Như chính tôi đã khóc.

Nguyên tác: David Willson, Chuyển ngữ: Trịnh Bình An


Chú thích:


  1. Những đoạn David Wilson trích là từ bài giới thiệu của cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích.

  2. Những đoạn thơ của Trần Đắc Thắng là người dịch thêm vào cho rõ nghĩa.

  3. Tuyển tập "Thơ Lính Chiến Miền Nam – ARVN Soldiers' Poetry" do Tủ Sách Tiếng Quê Hương xuất bản – 475 trang – giá 25.0 USD  

Mua sách: VLAC / TS Tiếng Quê Hương, P.O. Box 4653, Falls Church, VA 22044, USA. Email: [email protected] / [email protected]

Hoặc mua tại: Người Việt  - 14771 Moran Street, Westminster, CA 92683

Phone: (714) 892-9414 - Website: www.nguoivietshop.com

Sách cũng có bán trên trang điện tử Amazon.com

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.