Hôm nay,  

Con Thần Mã Seabiscuit

07/08/201710:12:00(Xem: 10644)

* “Ta đừng chỉ vì một khuyết điểm mà bỏ đi mất cả một cuộc đời.”


Con thần mã tên Seabiscuit sinh ngày 23 tháng Năm 1933, chết ngày 17 năm 1947 là con ngựa đua vô địch trong lịch sử đua ngựa của Mỹ.  Từ một con ngựa “què”, Seabiscuit bổng trở thành con ngựa vô địch và trở thành biểu tượng của hy vọng cho nhiều người Mỹ trong thời Khủng hoảng Kinh Tế.  Con Seabiscuit trở thành đề tài cho phim:  Truyện về Seabiscuit năm 1949, một quyển sách năm 2001 tên là Seabiscuit, Một Chuyện Truyền kỳ của Mỹ. và phim Seabiscuit năm 2003 [bạn có thể xem DVD này để thưởng thức sự huy hoàng của hình ảnh trong cuốn phim đầy giá trị này.- TTT] được đề cử cho giải thưởng phim ảnh Academy Award là phim có hình ảnnh đẹp nhất.  Tượng bằng đồng của Seabiscuit được dựng lên công viên ở Santa Anita Park, tb Kentucky.  

Seabiscuit sanh năm 1933, mẹ là Swing On và ngựa cha là Hard Tack.  Chữ “seabiscuit” là tên của loại bánh miếng cứng mà các thủy thủ hay ăn.  Chú ngựa con màu nâu đỏ này lớn l ên ở trang trại Lairborne, tb Kentucky, ông chủ của nó là Gadys Mills Phipps.  Con Seabiscuit khi nhỏ èo uột, đi cà nhắt, nhìn không có “tướng” gì, chỉ ăn rồi  nằm lăn ra ngủ!  Lúc khởi đầu nó được dạy bởi người huấn luyện nổi danh là Sunny Jim Fitzsimmons đã từng huấn luyện những con ngựa đoạt giải. Fitzsimmons thấy con Seabiscuit cũng có chút điểm hay nhưng cho là nó lười nên chỉ dành thì giờ huấn luyện cho con ngựa khác  đã ba lần thắng giải lớn tên Omaha. Con Seabiscuit bị loại ra chỉ được dự những cuộc đua nhỏ hơn. Nó không thắng trong mười cuộc đua đầu và chỉ lẹt đẹt về sau.  Sau đó việc huấn luyện con “ngưa què” naỳ là chuyện chẳng ai để tâm tới nữa và nó là đầu đề cho những câu chuyện chế nhạo mà thôi.  Khi được hai tuổi, con Seabiscuit ra trường đua tới ba mươi lăm lần, về nhứt được năm lần và về nhì bảy lần.  dù vậy khi cuối mùa đua nó vẫn còn bị làm con ngựa chạy phụ trong các cuộc  huấn luyện.  Trong mùa đua kế, con ngựa này vẫn không lập được thành tích gì đáng kể và người chủ nó bán cho một doanh gia xe hơi tên là Charles S. Howard với gía 8 ngàn đô la thời đó, tương đương với 100 ngàn năm 2007.  Đây không phải là một gía rẽ khiến cho Fitzsimmons nghỉ là con Seabiscuit phải có một tiềm năng nào đó và có thể trở thành một con ngựa đua chiến đúng nghĩa.  Thật ra thì con Seabiscuit đâu phải là một con ngừa “què” như Fitzmmons tưởng.  Thường thì ít có con ngựa đua hay nào chứng tỏ khả năng xuất chúng ngay từ những lần đua đầu.   

Người dạy ngựa kế là Tom Smith hiểu biết cái tiềm năng này ở Seabiscuit.  Ông dạy con ngựa bằng những phương cách “ngoài sách vở”  và dần dần đưa con Seabiscuit đạt được phong độ của nó.   Ông cho tay nài cởi người Canada có kinh nghiệm ở miền tây và ở Mexico nhưng không gặp may mắn trong nghề tên Red Pollard (1909-1981) cởi con Seabiscuit.  Ngày 22 tháng Tám năm 1936, con Seabiscuit dua lần đầu với người này mới không có gì làm mọi người để ý nhưng không lâu sau, sự tiến bộ được thấy rõ.  Trong tám lần đua kế triếp ở miền Đông, Seabiscuits và Pollard thấy được vài trận, kể cả gỉải Detroit’s Governor’s Handicap   ( $5. 600 thưởng) và giải Scarsdale Handicap ( $7,300 thưởng) tại trường đua Empire City Race ở Yonkers, tb New York. Đầu tháng Mười Một năm 1936, Howard và Smith dùng xe lửa chở con ngựa về California.  Trong hai trận cuối năm tại trường đua.   Ở sân Mateo, Seabiscuit thăng thắng được hai cuộc đua. Năm 1937 người chủ nhắm đến giải đua nổi tiếng vào tháng Hai là giải Santa Anita Handicap vớí tiền thưởng trên $125 ngàn  thời đó ( hơn 1 triệu 500 ngàn năm 2006) cho ngự thắng giải .  Trong lần chạy thử đầu tiên, Seabiscuit thắng dễ dàng nhưng bị thua ở trận nhì sau con Rosemont.  Hai tuần nữa sẽ có cuộc đua lại.  Trong cuộc đua lần này vì một con mắt của nài Pollard bị mờ nên Seabiscuit bị về sau con Rosemont trong tích tắt.  Tuy vậy sau đó nó thắng được hai trận và Howard đưa nó về phía Đông để thi nnhững trận đấu nổi tiếng hơn.

Khi về miền Đông, từ 26 tháng Sáu đến 7 tháng Bảy, nó nó thắng năm trận và sau đó thắng bảy trận cá độ.  Năm 1937, Seabiscuit thắng 11 trong 15 cuộc đua và kiếm tiền nhiều nhất trong năm đó, ớ phía tây Seabiscuit đã nổi danh như cồn.  Mỗi trận đua của nó được thính và khán gỉa cuồng nhiệt theo dõi và được kể trên hàng trăm cột báo.  Ở miền Đông này thì ít  ai “mê” Seabiscuit tới mức đó.  Về phần con ngựa đua lừng lẫy tên là War Admiral thì đã ba lần vô địch trong năm, nó còn  được bầu làm con ngựa xuất xắc ngoại hạng và được trao giài thưởng Danh Dự Eclipse của năm nữa. Ngày 19 tháng Hai  năm 198 Pollard bị té ngưạ bị gãy be sưòn và gãy chân nên phải thế người nài   tên George  Woolf. Trong suốt từ năm 1937 đến năm 1938, báo chí tryền thanh rầm rộ loan báo là sẽ có trận cá độ giữa Seabiscuit và con War Admiral. Ngày 1 tháng Mười Một năm 1938, trận đụng độ giữa Seabiscuit và War Admiral  đã thực sự xãy ra trong cuộc đua được gọi là “ Cuộc Đua của Thế Kỷ”.   Đưòng  đua dài 1 cây số 91 mét này là một cuộc đua được nhiều trông đợi nhất trong lịch sử Mỹ.  Trường đua Pimlico từ khán đài cho tới chỗ đứng vòng quanh sân đều chật cứng người hâm mộ.  Xe lửa trên toàn quốc chở người hâm mộ đến cở 40 ngàn người và khỏan 40 triệu người theo dõi trên ra- điô.  Con War Admiral là con ngựa được các tay cá độ bắt chấp thật cao so với các con ngựa khác trong mỗi cuộc nó đua.  

Thường trong cuộc đua kè sát thì con nào vượt đi trưóc ngay lúc đó sẽ giành được ưu thế và con War Admiral là con ngựa sở trường về chiêu thức này.  Còn về con Seabiscuit thì lại sở ttrường về chiêu pháp chạy từ từ lúc đầu rồi khi gần đến vòng chót nó rút thật gắt để tới mức.  Smith biết sở truờng và sở đoản của cả hai con ngựa.  Ông đã kín đáo tập con Seabiscuit bức đi nhanh bằng cách cho nó quen với  tiếng chuông rung khi khởi đầu phát xuất cuộc đua và nẹt roi liên tục để nó vụt phóng đi ngay.  Ngày đầu vì Pollard vẫn còn bị thương nên Woolf cởi con Seabiscuit ra trận,  Ngay khi tiếng chộng ra hiệu rung, Seabiscuit vượt khỏi con ngựa vô địch rồi sau đó tuy bị dạt ra ngoài, Woolf lượt lên trong 20 giây sau đó.  Ở nữa đường chạy con War Admiral lại dẫn đầu ngang với con Seabiscuit rồi nhích lên khỏi một chút.  Theo lời chỉ của Pollard, Woolf ghìm con Seabiscuit lại một chút để cho nó thấy đối phương đang chạy kế mình rồi thúc nó tăng tốc độ,  Khi còn hai trăm yards tới mức đến, nó rút thêm nữa và cứ tiếp tục dẫn đầu và đến mức hơn đối phương đến bốn quảng cách. Thắng con War Admiral ở trận này, Seabiscuit được mệnh danh là “Con Ngựa Trong Năm” của năm 1938.  

Trong khi chạy ở một cuộc đua con Seabiscuit bị ngã qụy.  Nài cởi Woolf tưởng rằng nó chỉ bị vấp ngã rồi tiếp tục chạy được.  Chấn thương này tuy không nguy hiểm đến tính mạng nó nhưng gân chân trái phía trước bị đứt.  Nhiều người đoán rằng nó sẽ không còn đua được nữa.  Ít lâu sau Pollard và Seabiscuit từ từ bình phục tại trang trại của Howard.  Nhờ bác sĩ chửa trị, chân của Red (tức là Pollard) từ từ chắc lại.  Red kẹp một thanh nẹp cứng vô cái chân bị thương để từ từ  tập cởi  con Seabiscuit trong  sự lo ngại c ủa Howard.  

Suốt mùa thu và đông năm 1939 tìng trạng sức khoẻ của Seabiscuit cải thiện ngày một.  Đến cuối 1939, Smith làm trái lại với lời khuyên của viên thú y để nó ra trường đua do Pollard cởi sau khi nhiêu lần nài nỉ vớí Howard là chân mình đã cứng lại .  Đến lần đua thứ ba thì con Seabiscuit lên được hạng nhất.  Chỉ còn một trận đua chót nữa gìữa con Kayak I I và con Seabiscuit để tranh giải Santa Anita Handicap với số tiền thưởng là 121 ngàn (thời ấy).  Con sồ người xem để ủng hộ con Seabiscuit vào ngày đua lên đến 78 ngàn người làm chật cứng cả trường đua.   Trận đua khởi đầu bất lợi cho Pollard vì bị mấy con ngực khác cản đường.  Dần dần con Seabiscuit lướt qua được nhưng rồi bị lùi xuống thứ ba, sau hai con Whichcee và Wedding Call chạy bên phía ngoài.  Tin chắc vào nước rút của con ngựa mình, Pollard lướt sát giữa hai con kia và bức lên chạy đầu.  Rồi  Seabiscuit rút nước đại bỏ lại hai con kia để vưt qua con dẩn  trước là Hundred Grander và thắng cuộc.  

Khán giả lúc đó trở nên như điên cuổng.  Không cách chi xen lọt được hàng rào người dày đặc để có thể  đến gần được con thần mã và ngươì nài cởi  Red Pollard, “tri kỹ” của nó.

Ngày 10 tháng Tư, Seabiscuit chính thức từ bỏ trường đua và về trang trại Ridgewood Ranh của Howard , tb California.  Seabiscuit là con ngực đua đã dẫn đầu mọi thời về tiền thưởng thắng cuộc cao nhất.  Nó để giống cho 108 ngựa con.  Hơn 50 ngàn khách thăm đến trang trại Ridgewood để xem Seabiscuit trong bảy  năm trước khi con ngựa chết.  Gia đìng Howard giữ bí mật chỗ chôn nó.  Ngày 23 tháng Sáu năm 2007 tượng kỷ niệm của Seabiscuit được khánh thành nơi trang trại ở Ridgewood, nơi an nghỉ vỉnh viển của nó.  

Seabiscuit đã chứng minh được lời của Smith khi nhìn ra  cái hay  của nó để nhận xét về bài học sống ở đời  là: “ Ta đừng chỉ vì một khuyết điểm mà bỏ mất cả một cuộc đời.” . /.


-  Lacey, một chiều thứ Bảy, tháng Tư năm 2010

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.