Hôm nay,  

SBTN Hội luận về The Vietnam War

16/10/201712:47:00(Xem: 8491)

SBTN Hội luận về The Vietnam War: 

những chuyện cần làm cho tương lai
cộng đồng và tổ quốc Việt Nam


blank
Vào lúc 1:30 trưa Chủ Nhật 15/10/2017, Đài Truyền Hình SBTN đã cho phát hình trực tiếp buổi hội thảo bàn tròn về bộ phim tài liệu The Vietnam War, vừa được trình chiếu trên PBS trong tháng 9/2017. Bộ phim đã gây ra rất nhiều tranh cãi trong cộng đồng người Việt khắp nơi trên thế giới. Buổi hội thảo là dịp để quí khán thính giả SBTN có thể nắm được một số ý kiến chính trong cộng đồng người Việt về bộ phim.

Hơn 10 vị khách mời có mặt tại phòng thâu hình SBTN, và 5 vị từ xa đã đưa ý kiến qua video, trong cuộc hội thảo kéo dài ba giờ đồng hồ. Từ những chứng nhân lịch sử như “người lính viết văn” Phan Nhật Nam, cựu đại sứ Bùi Diễm, nhà báo Bùi Tín… cho đến những người thuộc thế hệ trẻ hơn, thuộc nhiều thành phần khác nhau trong xã hội Mỹ, Việt Nam… Tất cả đã chỉ ra, chứng minh những thiếu sót lớn lao của bộ phim tài liệu tốn mất 10 năm và 30 triệu USD, được thực hiện bởi những đạo diễn nổi tiếng của Hoa Kỳ. Có thể tóm tắt, The Vietnam War đã  đưa thông tin hời hợi, thành kiến về chính thể VNCH, về những người lính Miền Nam đã bỏ xương máu ra để bảo vệ chính nghĩa tự do cho dân tộc. Tệ hại hơn, The Vietnam War đã bôi nhọ hình ảnh của người lính Cộng Hòa, xem họ chỉ là “lính kiểng, lính ma”, còn chính thể VNCH chỉ biết đấu đá nội bộ, tham nhũng. Bộ phim đã không thể chỉ ra được thời gian bắt đầu, nguyên nhân chính, và kẻ đã chủ động gây ra cuộc chiến. Đó chính là đảng CSVN và những người lãnh đạo, ngay từ những ngày đầu thành lập đã có ý đồ nhuộm đỏ cả Việt Nam, theo sự chỉ đạo của Trung Cộng và Liên Xô. Câu nói của Lê Duẩn: “ ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc” đã nói lên tất cả, mà chính quyền CSVN ngày nay cũng không thể chối bỏ sự thật này.

Nhưng điểm đáng chú ý nhất của buổi hội thảo không nằm ở chỗ chê trách bộ phim này, hay cố gắng chăm bẳm soi rọi lại quá khứ. Buổi hội thảo đã dành rất nhiều thì giờ để bàn thảo đến những vấn đề cần phải làm trong tương lai. Người Mỹ thực hiện bộ phim là để tìm hiểu thất bại trong quá khứ, hòa giải giữa người Mỹ và người Mỹ, cũng như cố gắng tránh được những sai lầm tương tự của nước Mỹ trong tương lai. Còn người Việt Nam, từ trong nước đến hải ngoại, 42 năm sau ngày ngưng tiếng súng, sau khi xem bộ phim người Mỹ làm về cuộc chiến tranh Việt Nam đầy thiếu sót như thế này, chúng ta sẽ phải làm những gì?

Điều đầu tiên đã được nêu lên, đó là cần có một bộ phim tài liệu về Vietnam War do chính những Người Việt Tự Do thực hiện. Đạo diễn Đức Nguyễn đã chỉ ra rằng không nên trách đạo diễn Kent Burns, vì ông ta phải làm phim theo yêu cầu của những nhà tài trợ. Danh sách những nhà tài trợ xuất hiện ở phần đầu từng tập phim mới chính là người quyết định xu hướng dàn dựng bộ phim này. Anh Nguyễn Kim Bình cũng nói rằng đừng nên trông chờ vào người Mỹ. Chính cộng đồng Người Việt Tự Do chúng ta phải thực hiện những bộ phim về cuộc chiến Việt Nam theo cách nhìn toàn diện hơn, đầy đủ hơn, để con cháu chúng ta sau này hiểu lịch sử Việt Nam chính xác hơn. Công việc này là cần thiết và khá cấp bách, bởi vì thế hệ “nhân chứng sống” về cuộc chiến Việt Nam nay đã lớn tuổi, sẽ rơi rụng dần trong một tương lai gần.

Billy Lê- một gương mặt trẻ quen thuộc của giới sinh viên học sinh gốc Việt ở vùng Little Saigon- mong muốn những người thuộc thế hệ cha ông hãy chia sẻ, giáo dục nhiều hơn với con em mình về sự thật của cuộc chiến tranh Việt Nam. Thí dụ như khi cùng xem  The Vietnam War, cha mẹ có thể chỉ ra cho con cháu thấy những góc nhìn khiếm diện của bộ phim “dành cho người Mỹ” này.

Việc lưu trữ những tài liệu lịch sử theo dạng truyền khẩu (oral history) là rất quan trọng để thế hệ mai sau có dịp tham khảo. Theo anh Bình, ở hai đại học UCI và CalState Fullerton hiện đang có lưu trữ văn khố của người Việt tị nạn. Cộng đồng hãy cùng cổ động, và tham gia làm giàu thêm tài liệu cho những kho lưu trữ này.

Ông Nguyễn Cảnh Sảng đặt trách nhiệm lên vai thế hệ trẻ Việt Nam lớn lên tại hải ngoại. Các em nên gánh vác trọng trách lưu truyền lịch sử sự thật về chiến tranh Việt Nam tại hải ngoại, bởi vì các em có điều kiện thực sự hội nhập vào xã hội Hoa Kỳ. Cuộc hội thảo hôm nay chỉ là bước khởi đầu. Những cuộc hội thảo trong tương lai sẽ do các em thực hiện, để tiếp nối thệ cha ông.

Vấn đề của người trong nước Việt Nam còn cấp bách hơn cả những người ở hải ngoại. Sau hơn 40 năm, ngày càng có nhiều người thuộc nhiều thế hệ của “phe thắng cuộc” đã nhận ra rằng cuộc chiến tranh Việt Nam đẫm máu, phi nhân là hoàn toàn không cần thiết...

Đọc thêm: http://www.sbtn.tv/sbtn-hoi-luan-ve-the-vietnam-war-nhung-chuyen-can-lam-cho-tuong-lai-cong-dong-va-to-quoc-viet-nam/
.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.