Hôm nay,  

Cộng Sản Đàn Áp Tôn giáo

25/11/201805:55:00(Xem: 8012)

Cộng Sản Đàn Áp Tôn giáo

 

Trần Văn Giang

 

 

blank

Sự tiến hóa của cộng sản

 

Chế độ Cộng sản là chế độ độc tài và toàn trị.  Cộng sản nhìn tôn giáo như một cơ chế mạnh vì có tổ chức và có tôn chỉ, đạo đức đứng đắn được dân kính trọng và tin tưởng.  Tự nhiên, các lãnh tụ cộng sản xem tôn giáo như một đe dọa lớn cho chủ nghĩa cộng sản, cần phải khống chế, đàn áp càng nhiều càng tốt…

 

Mặc dù Karl Marx, cha đẻ  của thuyết công sản đã từng nói: “Tôn giáo là thuốc phiện.”  Marx cho tôn giáo là một “phương tiện” mà giai cấp “cai trị” dùng để ru ngủ giới công nông; tôn giáo đã cho họ các ảo tưởng tốt đẹp về đời sống mà trong thực tế họ không bao giờ có.  Ở cuối thế kỷ 19, vào thời của Karl Marx và Friedrich Engels, chuyện giai cấp phong kiến dựa vào giáo hội để cai trị người dân là chuyện có thật; thành ra lý lẽ của Marx không hoàn toàn vô cớ vào thời điểm đó.  Marx có tư tưởng cực đoan về tôn giáo, nhưng chính Lenin ngay sau khi nắm chính quyền là lãnh tụ cộng sản đầu tiên đã thực sự kịch liệt chống đối tôn giáo; và các chính thể cộng sản trong phong trào cộng sản quốc tế theo gót Lenin cũng làm y như vậy.  Một điều oái oăm là ngay trong các tài liệu căn bản về cộng sản (Basics of Communism) viết bởi Karl Marx như “Tư bản luận” (Das Kapital) và “Cương lĩnh Cộng Sản” (Communist Manifesto) không hề đề cập gì đến tôn giáo.

 

Các phong trào và đảng cộng sản cấm và đàn áp tôn giáo vì cho rằng tôn giáo chi phối chính quyền (?) Nhìn lại, cũng chính đảng cộng sản cũng làm y như vậy (chi phối chính quyền).  Thành ra câu nói của TT Nguyễn Văn Thiệu (“Đừng nghe những  gì cs nói mà hãy nhìn kỹ những gì cs làm”) là chân lý chống cộng muôn đời.

 

Ở Nga, từ những ngày đầu phong trào Cộng sản nổi lên cướp chính quyền (Cách mạng “Bolsheviks” tháng 10 năm 1917 ở Nga) là đã có chuyện bài bác và chống tôn giáo.  Cộng sản Nga cho việc chống tôn giáo cũng đồng nghĩa với chống đối chế độ cai trị phong kiến của Nga Hoàng (Tsar) bởi vì Nga Hoàng tùy thuộc nặng nề vào tôn giáo để duy trì một xã hội xa cách và bất công giữa giàu và nghèo.  Nói cách khác giới công nông (nghèo) chỉ là tài sản, của riêng, vật dụng của giới cai trị.  Họ không có quyền gì cả. Cách mạng cộng sản sẽ giúp dân nghèo thay đổi cái bất công này (?)

 

Thật ra, ngay cả từ thời cộng sản Nga bắt đầu, tôn giáo vẫn có một sinh hoạt giới hạn, rất nhỏ chứ không tuyệt đối bị ngăn cấm.  Cộng sản cho tôn giáo được làm lễ (worship) trong phạm vi giới hạn (một cách “private”): tại nhà, nhà thờ, synagogue, mosque, temple… nhưng tuyệt đối không cho tôn giáo được phô bày quy mô trước công chúng (public) hay ngoài các phạm vi được cho phép trước.

 

Mặc dù chủ trương của Marx và chính quyền cộng sản chống tôn giáo, nhưng chúng ta thấy là ở một vài quốc gia cộng sản,  vẫn có tín ngưỡng ở tầm quốc gia: Chẳng hạn, ở Lào, Phật giáo vẫn là quốc giáo; ở Cuba, đại đa số dân Cuba là Công giáo (Catholics)… Theo tôi, chủ trương của cộng sản là tìm mọi cách để thay thế tín ngưỡng của người dân bằng sự tôn sùng tuyệt đối vào lãnh đạo và đảng cộng sản. Nhìn cho kỹ sẽ thấy cộng sản là một hình thức khác của “tôn giáo” (trá hình?) chứ có gì mới đâu?  Cộng sản có cả giáo điều (cương lĩnh cs) và “thiên đường cộng sản,” đâu có khác gì tín ngưỡng…  Tôn chỉ của tôn giáo là truyền bá, đề cao đạo đức trong đời sống và giá trị nhân bản.  Đồng thời, cộng sản cũng luôn luôn tự cho họ đã có sẵn những giải đáp thích đáng cho vấn đề đạo đức trong cuộc sống cũng như giá trị nhân bản (?!); nhưng chính họ cũng thấy ngay là lý lẽ duy vật của họ không thể lấy được lòng tin của con người như tôn giáo đã làm; cho nên, bằng mọi cách,  cộng sản phải đàn áp tôn giáo, bỏ tù các  vị lãnh đạo tinh thần (giáo sĩ, linh mục, tăng ni, mục sư, hiền tài…) tôn giáo.

 

Cộng sản luôn luôn tuyên truyền bài bác tôn giáo như là một “đặc sản” của tư bản.  Nói cách khác, cộng sản tuyên truyền là tư bản và giai cấp giàu có đã phát minh và dựa trên tôn giáo để mị dân, để làm giai cấp người nghèo cảm thấy yên phận, không chống đối chính phủ mặc dù bị bóc lột (?).

 

Cộng sản đã có trên 150 năm (tạm thời kể từ cuốn “Communist Manifesto” xuất bản năm 1848) vậy mà các tôn giáo lớn bên trong các các nước cộng sản độc tài sắt máu vẫn không thể bị tiêu diệt.  Trong những năm tháng sắp đến, cộng sản sẽ không còn trên mặt hành tinh này nữa; nhưng tôn giáo vẫn sống và phát triển không ngừng.  Thuyết tiến hóa của “Darwin” đã từ từ chứng minh điều này…

 

Nhân dịp này, tôi xin nhắc quý vị thêm một lần nữa: “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm !”  Cộng sản họ nói vậy mà không phải vậy!  Nhạc sĩ Văn Vĩ còn nhìn thấy trong khi mình có mắt sáng mà vẫn làm dáng cộng sản, vẫn ca bài “quốc tế” nghe sao đặng!

 

blank

Communist Manifesto - 1848

 

Trần Văn Giang

Orange County

Ngày 24 tháng 11 năm 2018.



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.