Hôm nay,  

MỸ NHƯ TÔI

25/11/201822:13:00(Xem: 7688)

 

  

Trang bìa số báo TIME đề ngày Nov. 26 / Dec. 3, 2018 có dòng chữ lớn: WHO GETS TO BE AMERICAN? by Viet Thanh Nguyen.

Nguyễn Thành Việt là nhà văn Mỹ gốc Việt, viết bằng tiếng Anh, đã đoạt giải Pulitzer về văn học năm 2016 qua tác phẩm THE SYMPATIZER, và nhiều giải văn học lớn khác như Andrew Carnegie Medal for Excellence in Fiction, Center For Fiction First Novel Prize.

Bài tiểu luận AMERICAN LIKE ME của Nguyễn Thành Việt được đăng trong số báo TIME nói trên.

Ngự Thuyết chuyển ngữ

 

  

MỸ NHƯ TÔI

 

Viet Thanh Nguyen

 

Ngự Thuyết chuyển ngữ

 

 

YÊU NÓ HAY RỜI NÓ. Bạn đã nghe một người nào đó nói như thế? Hay bạn đã nói điều đó? Bất cứ người nào  đã nghe năm tiếng đó đều hiểu nó mang ý nghĩa gì, vì hầu như nó luôn luôn chỉ nước Mỹ. Ai đã nghe câu nói ấy  đều hiểu rằng đấy là một khẩu súng đã lên đạn nhắm vào mình.

               Khi phát biểu câu đó, bạn có ngụ ý nói với lòng tử tế, với sự đồng cảm, với mỉa mai, với châm biếm, với hài hước không phải là lối hài hước đầy ác ý? Hay phải chăng câu nói ấy luôn luôn mang tính đe dọa trắng trợn?

               Tôi hỏi là do tôi tò mò thật sự, vì chính tôi không bao giờ nói câu đó để nhắm vào nước nào hay nơi chốn nào. Tôi không bao giờ nói “yêu nó hay rời nó” với đứa con trai của tôi, và tôi hy vọng tôi sẽ không bao giờ nói thế, vì đấy không phải là loại tình yêu mà tôi muốn có, đối với con tôi hay quê hương tôi, dù đó là quê hương nào đi nữa.

               Tại đất nước tôi đang viết những dòng này là nước Pháp, không phải là quê hương của tôi, nhưng nó đã chiếm nước Việt Nam nơi tôi sinh ra làm thuộc địa đến hai phần ba thế kỷ. Nền cai trị của Pháp chấm dứt chỉ 17 năm trước khi tôi ra đời. Cha mẹ tôi và cha mẹ của những người khác chỉ biết đó là chủ nghĩa thực dân Pháp. Có lẽ vì sự kiện lịch sử này mà một phần nào trong tôi yêu nước Pháp, một thứ tình yêu, trong một mức độ nào đó, bắt nguồn từ tình trạng bị Pháp thuộc địa hóa về mặt tinh thần.

               Vì bị chiếm làm thuộc địa, tôi không yêu nước Pháp như nhiều người Mỹ yêu nước Pháp, những người mơ về tháp Eiffel, về ngụm cà phê tại Les Deux Magots, về những món ăn ngon lành tại Provence. Đấy là tình yêu lãng mạn, được nghe nhạc phong cầm, được nghe Édith Piaf hát, những thứ mà tôi chỉ quan tâm thoáng qua. Tôi không thể không  nhìn vào di sản của chủ nghĩa thực dân, hiện rõ khắp nơi tại Paris nếu ta muốn nhìn thấy nó: người gốc Phi Châu, Ả Rập có mặt tại đây vì Pháp đã từng có mặt tại quê hương nơi họ ra đời. Lãng mạn hoá cuộc sống của những người đó, thường ở bên lề của xã hội Pháp, không phải là dễ, đó là lý do tại sao người Mỹ hiếm khi nói về họ như là một phần của trí tưởng tượng dồi dào vể Paris.

               Trí tưởng tượng thật là cám dỗ, đặc biệt là bắt nguồn từ lịch sử Việt Nam của tôi. Đa số người Pháp gốc Việt mà tôi quen biết đều hài lòng, ngay cả khi họ am hiểu những trang sử bị chiếm làm thuộc địa. Tại sao không? Một người bạn Ma-rốc ở Paris chỉ vào màu da tôi giống như những người Pháp có tổ tiên Việt Nam và nói, “Anh là người da trắng ở nơi này.” Nhưng ở Mỹ tôi không phải là người da trắng, hay chưa phải. Tôi được tạo dựng tại Mỹ nhưng ra đời tại Việt Nam, và gốc gác của tôi không thể nào tách rời khỏi ba cuộc chiến: cuộc chiến Việt chống Pháp; cuộc chiến Việt đánh nhau; và cuộc chiến Hoa Kỳ đánh tại Việt Nam.

               Nhiều người Mỹ xem đó là cuộc chiến cao cả, dù có thể có sai lầm, là tấm gương của thiện ý của người Mỹ. Và trong khi cũng có một ít sự thật trong đó, nó cũng chỉ là sự tiếp nối của chiến tranh thuộc địa Pháp, một cuộc chiến mang tính phân biệt chủng tộc, và đế quốc trên căn bản và trong hành động. Như vậy, cuộc chiến này chỉ là biểu thị của sự bành trướng qua mấy thế kỷ của đế quốc Mỹ khởi đầu từ sự ra đời của chính thuộc địa của nó rồi xuyên qua biên giới, tới miền Tây nước Mỹ, Mễ Tây Cơ, Hawaii, Guam, Puerto Rico, Phi Luật Tân, Nhật bản, Triều Tiên, Việt Nam và bây giờ là Trung Đông.

               Một cuộc chiến có thể là một sai lầm. Một chuỗi dài cuộc chiến lại là một khuôn mẫu. Người da đỏ là bọn khủng bố nguyên thuỷ trong tưởng tượng Mỹ. Sự diệt chủng người da đỏ do người lập nghiệp da trắng phạm phải là bộ mặt trái xấu xí của lễ Tạ Ơn, sự kiện đó không hoàn toàn được nhớ lại, cũng không hoàn toàn bị lãng quên, ngay cả tại Pháp vẫn có hình ảnh người Mỹ bản xứ trần truồng nửa người, đầu đội nón lông gà. Mấy thế kỷ sau, ký ức ngấm ngầm của tội diệt chủng –hay trong lễ ăn mừng cuộc chiến chinh phục – lại nổi dậy khi lính Mỹ gọi lãnh thổ thù nghịch ở Việt Nam là “vùng đất của Người Da Đỏ.” Bây giờ người Hồi Giáo là đám tiện dân mới trong khi bọn khủng bố là cộng sản mới, vì cộng sản cũ không còn là mối đe doạ quá trầm trọng nữa và mỗi xã hội cần có một Kẻ Khác để xác định những ranh giới và nỗi sợ hãi về nó.

              

               Nhiều người Mỹ không thích nghe những điều nói trên. Một cựu chiến binh Mỹ, một hạ sỹ quan, giận dữ viết cho tôi sau khi đọc một bài tiểu luận của tôi về những vết sẹo mà người tỵ nạn Việt Nam mang theo. Anh nói, người Mỹ đã hy sinh cho đất nước tôi, gia đình tôi, và tôi. Tôi phải biết ơn. Khi tôi viết thư trả lời bảo rằng anh giận dữ như thế thì chỉ làm tổn thương cho chính mình mà thôi, anh ta lại viết tiếp một lá thư khác càng giận dữ hơn. Một cựu chiến binh khác, một sỹ quan, nay là nha sỹ và bác sỹ, đọc cuốn tiểu thuyết The Sympathizer của tôi, gởi cho tôi một lá thư giọng điệu ôn tồn hơn nhưng mang một thông điệp thẳng thừng. Anh có vẻ như thích cộng sản lắm, anh ấy nói. Sao anh không trở về Việt Nam? Và mang theo con anh?

               Tôi mệt quá, không trả lời anh ấy. Lẽ ra tôi phải trả lời. Tôi phải lưu ý anh rằng có lẽ anh chưa đọc hết cuốn tiểu thuyết của tôi, vì phần cuối cùng của cuốn sách kết tội những thất bại tai hại của cộng sản tại Việt Nam. Có lẽ anh không bao giờ bỏ qua chuyện đó vì phần đầu của cuốn sách làm cho anh bực mình, nó lên án chiến tranh Mỹ tại Việt Nam. Có lẽ anh không đọc đến phần giữa của cuốn sách, ở đó tôi cũng châm biếm những thất bại của chính quyền mà tôi là công dân, nước Việt Nam Cộng Hòa, miền Nam.

               Tôi phê bình không phải vì tôi ghét tất cả những đất nước mà tôi biết nhưng vì tôi yêu những đất nước đó. Tình yêu ấy quả khó khăn vì lịch sử của những nước đó, giống như lịch sử của tất cả các nước, rất là phức tạp. Mọi nước đều tin tưởng vào cái đẹp của chính họ và từ nhãn quan đó, họ dựng lên những nền văn hóa tốt đẹp, có Pháp trong đó. Tuy nhiên mọi nước cũng bị vấy bẩn trong máu của chinh phục và bạo lực, có Việt Nam trong đó. Nếu chúng ta yêu quê hương chúng ta, chúng ta có bổn phận không phải chỉ tâng bốc quê hương đó nhưng cũng phải nói lên sự thật về nó với tất cả cái đẹp đẽ cũng như cái bạo tàn, có Mỹ trong đó.

               Nếu tôi có viết lá thư trả lời, tôi đã phải hỏi vị nha sỹ và bác sỹ này tại sao anh ta đe dọa đứa con trai của tôi, nó sinh ra tại Mỹ mà. Quyền công dân của nó là hiển nhiên, cũng đúng đắn như quyền công dân của ông nha sỹ, ông bác sỹ, và ông cựu quân nhân. Và  ngay cả khi con tôi được bảo rằng yêu nó hay rời nó. Cái lối bảo ban đó có mang tính chất Mỹ không? Có. Và không. “Yêu nó hay rời nó” là  hoàn toàn có tính chất Mỹ và, đồng thời cũng không Mỹ một chút nào, y như tôi vậy.

Khác với đứa con trai của tôi, tôi phải nhập quốc tịch Mỹ. Tôi có yêu nước Mỹ vào thời điểm tôi nhập tịch không? Thật khó nói, vì tôi không bao giờ nói "Tôi yêu em, anh, nó, cái đó ...." với bất cứ ai, kể cả với cha mẹ tôi, lại càng không nói với một xứ sở.  Nhưng tôi vẫn muốn tuyên thệ làm công dân Mỹ khi tôi là một thanh niên mới lớn. Đồng thời, tôi muốn giữ tên Việt Nam của tôi. Tôi đã  cố gắng chọn nhiều tên Mỹ khác nhau cho thích hợp. Tất cả đều gượng gạo. Chỉ cái tên cha mẹ đặt cho tôi mới tự nhiên, có lẽ vì cha tôi không bao giờ thôi bảo tôi rằng, "Con 100% Việt Nam."

               Bằng cách giữ cái tên cũ đó, tôi có thể trở thành một người Mỹ mà không quên rằng tôi sinh ra tại Việt Nam. Nghịch lý thay, tôi cũng tin rằng khi giữ lại tên cũ, tôi càng gắn bó với nước Mỹ. Không phải nước Mỹ của những người bảo, "yêu nó hoặc  rời nó," nhưng với nước Mỹ của tôi, một nước Mỹ mà tôi tự buộc phải nói lên cái tên của tôi, thay vì một nước Mỹ áp đặt cái tên cho tôi.

               Đặt tên cho đứa con trai của tôi lại là cả một thử thách. Tôi muốn đặt một tên Mỹ nào mà nó có thể diễn tả được những rắc rối phức tạp của nước Mỹ của chúng ta. Tôi chọn Ellison, phỏng theo tên nhà văn lớn Ralph Waldo Ellison, chính ông ta cũng phỏng theo Ralph Waldo Emerson, triết gia vỹ đại.  Phả hệ của con tôi sẽ là đen và trắng, văn học và triết học, Mỹ gốc Phi Châu và Mỹ. Phả hệ này biểu đạt sự vỹ đại và cũng là nỗi kinh hoàng của nước Mỹ, nền dân chủ  cũng như chế độ nô lệ. Một số người Mỹ thích tin rằng sự vỹ đại nối tiếp nỗi kinh hoàng, nhưng với tôi, vỹ đại và kinh hoàng tồn tại đồng thời, vì đã xẩy ra ngay từ khởi đầu của của lịch sử Hoa Kỳ của chúng ta và có lẽ kéo dài đến tận cùng. Một cái tên như Ellison nén lại cái đẹp và sự bạo tàn của nước Mỹ vào bảy chữ cái (Ellison, NT chú thích), kết quả của tuyệt vọng và hy vọng.

               Đây là một gánh nặng đè lên đứa con cho dù nó không nặng hơn gánh nặng mà cha mẹ tôi đặt lên tôi. Tên của tôi là tên của dân tộc Việt Nam, mà huyền sử ái quốc đã chứng tỏ rằng để được độc lập và tự do chúng tôi đã phải chịu đựng bao nỗi thống khổ qua nhiều thế kỷ. Vậy mà nước Việt Nam ngày nay có độc lập nhưng thiếu tự do. Tôi không bao giờ có thể trở lại Việt Nam vĩnh viễn, vì tôi không bao giờ có  thể là nhà văn tại đấy và nói những gì tôi muốn nói mà không bị bỏ tù.

               Cho nên tôi chọn tự do của nước Mỹ, ngay cả vào thời điểm câu nói “yêu nó hay rời nó” không còn chỉ là lối nói khoa trương nghe cho vui nữa. Chánh quyền hiện tại đang đe dọa loại bỏ quốc tịch và tống xuất  những công dân đã nhập quốc tịch. Có lẽ không còn là chuyện viển vông khi nghĩ rằng một ngày nào đó một người như tôi, sinh tại việt Nam, có thể bị gởi trả về Việt Nam, dù tôi đã nỗ lực tự khẳng định hơn nhiều người Mỹ sinh trưởng tại nơi này. Nếu điều đó xẩy ra, tôi sẽ không mang đứa con trai theo tôi. Việt Nam không phải là quê hương của nó. Mỹ mới là quê hương của nó, và có lẽ nó sẽ nhận thức một thứ tình yêu quê hương đến từ trực giác hơn là từ những chuyện rối rắm phức tạp như trường hợp của tôi.

               Nó cũng sẽ – tôi hy vọng – biết đến thứ tình yêu của người cha ít phức tạp hơn thứ tình yêu của tôi. Tôi không bao giờ nói “Con yêu bố mẹ” khi tôi lớn lên vì cha mẹ tôi không bao giờ nói với tôi rằng “Bố mẹ yêu con.” Điều đó không có nghĩa rằng cha mẹ tôi không yêu tôi. Cha mẹ tôi hết sức yêu tôi cho đến nổi họ phải làm việc đến kiệt lực trên đất nước mới mẻ này. Tôi ít khi về thăm cha mẹ. Khi tôi về, cha mẹ tôi đã quá mệt nhọc đến hết cả vui sướng. Tuy nhiên, dù kiệt lực đi nữa, cha mẹ tôi cũng luôn luôn làm một bữa ăn thường chỉ có thịt luộc. Tôi lớn lên nhờ bộ đồ lòng, lưỡi, gan, bao tử, tim. Nhưng tôi không bao giờ bị bỏ đói.

               Kỷ niệm về thứ tình yêu sâu xa như từ trong máu trong thịt đó, được thể hiện bằng hy sinh, đã thâm nhập vào xương tuỷ của tôi. Một lời nói, hay một giọng nói, có thể khiến tôi cảm nhận được chiều sâu của tình yêu ấy, như có lần tôi thoáng nghe một mẩu chuyện tại cửa hàng dược phẩm vùng tôi ở thuộc thành phố Los Angeles. Người đàn ông ở cạnh tôi là người châu Á, không bảnh bao, ăn mặc làng nhàng. Ông nói vào điện thoại di động bằng giọng miền Nam. “Con oi, Ba day. Con an com chua?” Trông ông hơi thô, có lẽ thuộc giới lao động. Nhưng ông nói với con ông bằng tiếng Việt, giọng nói thật dịu dàng. Không thể nào chuyển dịch được những gì ông nói. Chỉ có thể cảm thấy thôi.

               Dịch sát từng chữ, câu nói đó, ”Hello, child. This is your father. Have you eaten rice yet?” có nghĩa, “Con ơi, Ba đây. Con ăn cơm chưa?” Nó chẳng có nghĩa gì trong tiếng Anh, nhưng trong tiếng Việt, nó là tất cả. “Con ơi, Ba đây. Con ăn cơm chưa?” Đây là cách người chủ tiếp người khách đến nhà mình, bằng lối hỏi khách đã ăn gì chưa. Đây là cách cha mẹ cho con biết họ thương con lắm, nhưng không bao giờ nói, “Bố mẹ thương con”. Tôi lớn lên với những tập tục này, cảm xúc này, thân thương này, nên khi tôi nghe người cha nói với con như thế, tôi muốn trào nước mắt. Đấy là cách tôi biết rằng tôi vẫn là người Việt Nam, vì lịch sử của tôi đã nằm trong máu của tôi và văn hoá của tôi là cuống rốn của tôi. Ngay cả khi tiếng Việt của tôi không hoàn hảo, thật vậy, tôi vẫn thấy mối dây liên hệ với Việt Nam và người tỵ nạn Việt Nam sống trên khắp thế giới.

               Tuy nhiên, khi tôi lớn lên, một số người Mỹ gốc Việt thường bảo tôi rằng tôi quả thật không phải là người Việt Nam vì tôi không nói tiếng Việt sành sõi. Lối phát biểu đó na ná như “yêu nó hay rời nó.” Nhưng có nhiều cách để làm người Việt Nam, cũng như có nhiều cách để làm người Pháp, nhiều cách để làm người Mỹ. Đối với tôi, chừng nào tôi cảm thấy mình là Việt Nam, chừng nào những sự kiện liên quan đến Việt Nam làm tôi xúc động, thì tôi vẫn là Việt Nam. Đấy là phương thức giúp tôi cảm nhận tình yêu quê hương Việt Nam, một trong những quê hương của tôi, và đó cũng là cách tôi nhận ra tôi chính là Việt nam.

               Khi ngang nhiên bảo rằng mình là Việt Nam, không đếm xỉa đến xác nhận của bất kỳ ai khác, tôi cũng tự nhận mình chính là người Mỹ. Chống đối lại tất cả những người bảo “yêu nó hay rời nó”, họ chỉ có một một con đường trở thành người Mỹ, tôi nhấn mạnh rằng nước Mỹ cho phép tôi làm người Việt Nam và được những người khác yêu mến. Cho nên mỗi ngày tôi vẫn hỏi con tôi đã ăn uống gì chưa và thế là mỗi ngày tôi vẫn nói với nó rằng tôi yêu nó. Điều đó cho thấy tình yêu quê hương và tình yêu gia đình không khác nhau. Tôi muốn tạo nên một gia đình nơi đó tôi sẽ không bao giờ phải nói với con tôi “yêu nó hay rời nó”, cũng như tôi mong muốn một quê hương không bao giờ sẽ nói như vậy với bất kỳ ai.

               Đa số người Mỹ không cảm thấy điều mà tôi cảm thấy khi nghe tiếng Việt Nam, nhưng họ cảm thấy tình yêu quê hương theo lối của họ. Có thể họ nhận thức được tình yêu quê hương sâu xa, đầy xúc cảm ấy khi họ thấy lá cờ hoặc nghe bản quốc ca. Tôi xin thú nhận rằng những biểu tượng ấy không mang nhiều ý nghĩa đối với tôi, vì chúng gây chia rẽ cũng như đoàn kết. Quá nhiều người từ cấp cao nhất đến thành phần thấp kém đều đã sử dụng những biểu tượng ấy để chủ yếu là nói với toàn thể người Mỹ rằng hãy  yêu thương đất nước này hay hãy rời bỏ nó.

               Không bị ảnh hưởng bởi lá cờ và quốc thiều không khiến cho tôi kém chất Mỹ hơn những người trân quý những biểu tượng ấy. Phải chăng điều quan trọng hơn đó là tôi yêu thực chất nằm đằng sau những biểu tượng nói trên hơn là  chính những biểu tượng đó. Đó là những nguyên tắc. Dân chủ, bình đẳng, công lý, hy vọng, hòa bình và đặc biệt là tự do, tự do viết lách và suy nghĩ những gì tôi muốn, cho dù những thứ tự do của tôi và cái đẹp của những nguyên tắc trên đều được nuôi dưỡng bằng máu me từ tội diệt chủng, nô lệ, chinh phục, thực dân, chiến tranh đế quốc, chiến tranh miên man. Tất cả những thứ đó là nước Mỹ, nước Mỹ đẹp đẽ và tàn bạo của chúng ta.

 

               Trước kia tôi không hiểu thấu điều mâu thuẫn đó là nước Mỹ của chúng ta, vào giai đoạn tôi còn trẻ sống tại San Diego, California vào những thập niên 1970 và 1980.  Hồi đó tôi chỉ muốn làm người Mỹ  theo lối đơn giản nhất, một phần để chống đối cha tôi đòi hỏi tôi phải 100% Việt Nam. Cha tôi yêu quê hương của ông thật sâu đậm vì ông đã đánh mất nó khi chúng tôi đào thoát khỏi Việt Nam làm người tỵ nạn năm 1975. Nếu cha mẹ tôi bám chặt vào căn cước  và văn hóa Việt Nam, chính vì họ mong muốn lấy lại quê hương đã mất, một tình cảm mà nhiều người Mỹ chắc chắn đã hiểu.

               Thế rồi Mỹ tái lập quan hệ với Việt Nam năm 1994, và cha mẹ tôi nhân cơ hội đầu tiên đó về Việt Nam. Họ về hai lần, không có tôi, để thăm một nước vừa trổi dậy từ nghèo khổ và tuyệt vọng sau chiến tranh. Những gì họ chứng kiến nơi quê cũ đã tác động mạnh nơi cha tôi. Sau chuyến thăm thứ hai, cha mẹ tôi không bao giờ trở lại Việt Nam nữa. Thay vào đó, trong bữa ăn vào Lễ Tạ Ơn kế tiếp, cha tôi nói, “Bây giờ chúng ta là người Mỹ.”

               Cuối cùng cha tôi đã khẳng định là người Mỹ. Lẽ ra tôi phải phấn khởi, và phần nào tôi đã có cảm tưởng ấy khi chúng tôi ngồi trước món ăn gà tây lạ lẫm, khoai tây nghiền, nước xốt cranberry, mà anh tôi anh tôi đã mua từ một siêu thị vì không một ai trong gia đình tôi biết cách nấu những món đặc biệt này mà chúng tôi chỉ ăn mỗi năm một lần. Nhưng nếu tôi cũng thấy không được thoải mái, chính là vì tôi không thể không tự hỏi: Đây là nước Mỹ nào vậy.

                                                                      Nov. 20, 2018            

                                    

  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.