Hôm nay,  

MỸ NHƯ TÔI

25/11/201822:13:00(Xem: 7686)

 

  

Trang bìa số báo TIME đề ngày Nov. 26 / Dec. 3, 2018 có dòng chữ lớn: WHO GETS TO BE AMERICAN? by Viet Thanh Nguyen.

Nguyễn Thành Việt là nhà văn Mỹ gốc Việt, viết bằng tiếng Anh, đã đoạt giải Pulitzer về văn học năm 2016 qua tác phẩm THE SYMPATIZER, và nhiều giải văn học lớn khác như Andrew Carnegie Medal for Excellence in Fiction, Center For Fiction First Novel Prize.

Bài tiểu luận AMERICAN LIKE ME của Nguyễn Thành Việt được đăng trong số báo TIME nói trên.

Ngự Thuyết chuyển ngữ

 

  

MỸ NHƯ TÔI

 

Viet Thanh Nguyen

 

Ngự Thuyết chuyển ngữ

 

 

YÊU NÓ HAY RỜI NÓ. Bạn đã nghe một người nào đó nói như thế? Hay bạn đã nói điều đó? Bất cứ người nào  đã nghe năm tiếng đó đều hiểu nó mang ý nghĩa gì, vì hầu như nó luôn luôn chỉ nước Mỹ. Ai đã nghe câu nói ấy  đều hiểu rằng đấy là một khẩu súng đã lên đạn nhắm vào mình.

               Khi phát biểu câu đó, bạn có ngụ ý nói với lòng tử tế, với sự đồng cảm, với mỉa mai, với châm biếm, với hài hước không phải là lối hài hước đầy ác ý? Hay phải chăng câu nói ấy luôn luôn mang tính đe dọa trắng trợn?

               Tôi hỏi là do tôi tò mò thật sự, vì chính tôi không bao giờ nói câu đó để nhắm vào nước nào hay nơi chốn nào. Tôi không bao giờ nói “yêu nó hay rời nó” với đứa con trai của tôi, và tôi hy vọng tôi sẽ không bao giờ nói thế, vì đấy không phải là loại tình yêu mà tôi muốn có, đối với con tôi hay quê hương tôi, dù đó là quê hương nào đi nữa.

               Tại đất nước tôi đang viết những dòng này là nước Pháp, không phải là quê hương của tôi, nhưng nó đã chiếm nước Việt Nam nơi tôi sinh ra làm thuộc địa đến hai phần ba thế kỷ. Nền cai trị của Pháp chấm dứt chỉ 17 năm trước khi tôi ra đời. Cha mẹ tôi và cha mẹ của những người khác chỉ biết đó là chủ nghĩa thực dân Pháp. Có lẽ vì sự kiện lịch sử này mà một phần nào trong tôi yêu nước Pháp, một thứ tình yêu, trong một mức độ nào đó, bắt nguồn từ tình trạng bị Pháp thuộc địa hóa về mặt tinh thần.

               Vì bị chiếm làm thuộc địa, tôi không yêu nước Pháp như nhiều người Mỹ yêu nước Pháp, những người mơ về tháp Eiffel, về ngụm cà phê tại Les Deux Magots, về những món ăn ngon lành tại Provence. Đấy là tình yêu lãng mạn, được nghe nhạc phong cầm, được nghe Édith Piaf hát, những thứ mà tôi chỉ quan tâm thoáng qua. Tôi không thể không  nhìn vào di sản của chủ nghĩa thực dân, hiện rõ khắp nơi tại Paris nếu ta muốn nhìn thấy nó: người gốc Phi Châu, Ả Rập có mặt tại đây vì Pháp đã từng có mặt tại quê hương nơi họ ra đời. Lãng mạn hoá cuộc sống của những người đó, thường ở bên lề của xã hội Pháp, không phải là dễ, đó là lý do tại sao người Mỹ hiếm khi nói về họ như là một phần của trí tưởng tượng dồi dào vể Paris.

               Trí tưởng tượng thật là cám dỗ, đặc biệt là bắt nguồn từ lịch sử Việt Nam của tôi. Đa số người Pháp gốc Việt mà tôi quen biết đều hài lòng, ngay cả khi họ am hiểu những trang sử bị chiếm làm thuộc địa. Tại sao không? Một người bạn Ma-rốc ở Paris chỉ vào màu da tôi giống như những người Pháp có tổ tiên Việt Nam và nói, “Anh là người da trắng ở nơi này.” Nhưng ở Mỹ tôi không phải là người da trắng, hay chưa phải. Tôi được tạo dựng tại Mỹ nhưng ra đời tại Việt Nam, và gốc gác của tôi không thể nào tách rời khỏi ba cuộc chiến: cuộc chiến Việt chống Pháp; cuộc chiến Việt đánh nhau; và cuộc chiến Hoa Kỳ đánh tại Việt Nam.

               Nhiều người Mỹ xem đó là cuộc chiến cao cả, dù có thể có sai lầm, là tấm gương của thiện ý của người Mỹ. Và trong khi cũng có một ít sự thật trong đó, nó cũng chỉ là sự tiếp nối của chiến tranh thuộc địa Pháp, một cuộc chiến mang tính phân biệt chủng tộc, và đế quốc trên căn bản và trong hành động. Như vậy, cuộc chiến này chỉ là biểu thị của sự bành trướng qua mấy thế kỷ của đế quốc Mỹ khởi đầu từ sự ra đời của chính thuộc địa của nó rồi xuyên qua biên giới, tới miền Tây nước Mỹ, Mễ Tây Cơ, Hawaii, Guam, Puerto Rico, Phi Luật Tân, Nhật bản, Triều Tiên, Việt Nam và bây giờ là Trung Đông.

               Một cuộc chiến có thể là một sai lầm. Một chuỗi dài cuộc chiến lại là một khuôn mẫu. Người da đỏ là bọn khủng bố nguyên thuỷ trong tưởng tượng Mỹ. Sự diệt chủng người da đỏ do người lập nghiệp da trắng phạm phải là bộ mặt trái xấu xí của lễ Tạ Ơn, sự kiện đó không hoàn toàn được nhớ lại, cũng không hoàn toàn bị lãng quên, ngay cả tại Pháp vẫn có hình ảnh người Mỹ bản xứ trần truồng nửa người, đầu đội nón lông gà. Mấy thế kỷ sau, ký ức ngấm ngầm của tội diệt chủng –hay trong lễ ăn mừng cuộc chiến chinh phục – lại nổi dậy khi lính Mỹ gọi lãnh thổ thù nghịch ở Việt Nam là “vùng đất của Người Da Đỏ.” Bây giờ người Hồi Giáo là đám tiện dân mới trong khi bọn khủng bố là cộng sản mới, vì cộng sản cũ không còn là mối đe doạ quá trầm trọng nữa và mỗi xã hội cần có một Kẻ Khác để xác định những ranh giới và nỗi sợ hãi về nó.

              

               Nhiều người Mỹ không thích nghe những điều nói trên. Một cựu chiến binh Mỹ, một hạ sỹ quan, giận dữ viết cho tôi sau khi đọc một bài tiểu luận của tôi về những vết sẹo mà người tỵ nạn Việt Nam mang theo. Anh nói, người Mỹ đã hy sinh cho đất nước tôi, gia đình tôi, và tôi. Tôi phải biết ơn. Khi tôi viết thư trả lời bảo rằng anh giận dữ như thế thì chỉ làm tổn thương cho chính mình mà thôi, anh ta lại viết tiếp một lá thư khác càng giận dữ hơn. Một cựu chiến binh khác, một sỹ quan, nay là nha sỹ và bác sỹ, đọc cuốn tiểu thuyết The Sympathizer của tôi, gởi cho tôi một lá thư giọng điệu ôn tồn hơn nhưng mang một thông điệp thẳng thừng. Anh có vẻ như thích cộng sản lắm, anh ấy nói. Sao anh không trở về Việt Nam? Và mang theo con anh?

               Tôi mệt quá, không trả lời anh ấy. Lẽ ra tôi phải trả lời. Tôi phải lưu ý anh rằng có lẽ anh chưa đọc hết cuốn tiểu thuyết của tôi, vì phần cuối cùng của cuốn sách kết tội những thất bại tai hại của cộng sản tại Việt Nam. Có lẽ anh không bao giờ bỏ qua chuyện đó vì phần đầu của cuốn sách làm cho anh bực mình, nó lên án chiến tranh Mỹ tại Việt Nam. Có lẽ anh không đọc đến phần giữa của cuốn sách, ở đó tôi cũng châm biếm những thất bại của chính quyền mà tôi là công dân, nước Việt Nam Cộng Hòa, miền Nam.

               Tôi phê bình không phải vì tôi ghét tất cả những đất nước mà tôi biết nhưng vì tôi yêu những đất nước đó. Tình yêu ấy quả khó khăn vì lịch sử của những nước đó, giống như lịch sử của tất cả các nước, rất là phức tạp. Mọi nước đều tin tưởng vào cái đẹp của chính họ và từ nhãn quan đó, họ dựng lên những nền văn hóa tốt đẹp, có Pháp trong đó. Tuy nhiên mọi nước cũng bị vấy bẩn trong máu của chinh phục và bạo lực, có Việt Nam trong đó. Nếu chúng ta yêu quê hương chúng ta, chúng ta có bổn phận không phải chỉ tâng bốc quê hương đó nhưng cũng phải nói lên sự thật về nó với tất cả cái đẹp đẽ cũng như cái bạo tàn, có Mỹ trong đó.

               Nếu tôi có viết lá thư trả lời, tôi đã phải hỏi vị nha sỹ và bác sỹ này tại sao anh ta đe dọa đứa con trai của tôi, nó sinh ra tại Mỹ mà. Quyền công dân của nó là hiển nhiên, cũng đúng đắn như quyền công dân của ông nha sỹ, ông bác sỹ, và ông cựu quân nhân. Và  ngay cả khi con tôi được bảo rằng yêu nó hay rời nó. Cái lối bảo ban đó có mang tính chất Mỹ không? Có. Và không. “Yêu nó hay rời nó” là  hoàn toàn có tính chất Mỹ và, đồng thời cũng không Mỹ một chút nào, y như tôi vậy.

Khác với đứa con trai của tôi, tôi phải nhập quốc tịch Mỹ. Tôi có yêu nước Mỹ vào thời điểm tôi nhập tịch không? Thật khó nói, vì tôi không bao giờ nói "Tôi yêu em, anh, nó, cái đó ...." với bất cứ ai, kể cả với cha mẹ tôi, lại càng không nói với một xứ sở.  Nhưng tôi vẫn muốn tuyên thệ làm công dân Mỹ khi tôi là một thanh niên mới lớn. Đồng thời, tôi muốn giữ tên Việt Nam của tôi. Tôi đã  cố gắng chọn nhiều tên Mỹ khác nhau cho thích hợp. Tất cả đều gượng gạo. Chỉ cái tên cha mẹ đặt cho tôi mới tự nhiên, có lẽ vì cha tôi không bao giờ thôi bảo tôi rằng, "Con 100% Việt Nam."

               Bằng cách giữ cái tên cũ đó, tôi có thể trở thành một người Mỹ mà không quên rằng tôi sinh ra tại Việt Nam. Nghịch lý thay, tôi cũng tin rằng khi giữ lại tên cũ, tôi càng gắn bó với nước Mỹ. Không phải nước Mỹ của những người bảo, "yêu nó hoặc  rời nó," nhưng với nước Mỹ của tôi, một nước Mỹ mà tôi tự buộc phải nói lên cái tên của tôi, thay vì một nước Mỹ áp đặt cái tên cho tôi.

               Đặt tên cho đứa con trai của tôi lại là cả một thử thách. Tôi muốn đặt một tên Mỹ nào mà nó có thể diễn tả được những rắc rối phức tạp của nước Mỹ của chúng ta. Tôi chọn Ellison, phỏng theo tên nhà văn lớn Ralph Waldo Ellison, chính ông ta cũng phỏng theo Ralph Waldo Emerson, triết gia vỹ đại.  Phả hệ của con tôi sẽ là đen và trắng, văn học và triết học, Mỹ gốc Phi Châu và Mỹ. Phả hệ này biểu đạt sự vỹ đại và cũng là nỗi kinh hoàng của nước Mỹ, nền dân chủ  cũng như chế độ nô lệ. Một số người Mỹ thích tin rằng sự vỹ đại nối tiếp nỗi kinh hoàng, nhưng với tôi, vỹ đại và kinh hoàng tồn tại đồng thời, vì đã xẩy ra ngay từ khởi đầu của của lịch sử Hoa Kỳ của chúng ta và có lẽ kéo dài đến tận cùng. Một cái tên như Ellison nén lại cái đẹp và sự bạo tàn của nước Mỹ vào bảy chữ cái (Ellison, NT chú thích), kết quả của tuyệt vọng và hy vọng.

               Đây là một gánh nặng đè lên đứa con cho dù nó không nặng hơn gánh nặng mà cha mẹ tôi đặt lên tôi. Tên của tôi là tên của dân tộc Việt Nam, mà huyền sử ái quốc đã chứng tỏ rằng để được độc lập và tự do chúng tôi đã phải chịu đựng bao nỗi thống khổ qua nhiều thế kỷ. Vậy mà nước Việt Nam ngày nay có độc lập nhưng thiếu tự do. Tôi không bao giờ có thể trở lại Việt Nam vĩnh viễn, vì tôi không bao giờ có  thể là nhà văn tại đấy và nói những gì tôi muốn nói mà không bị bỏ tù.

               Cho nên tôi chọn tự do của nước Mỹ, ngay cả vào thời điểm câu nói “yêu nó hay rời nó” không còn chỉ là lối nói khoa trương nghe cho vui nữa. Chánh quyền hiện tại đang đe dọa loại bỏ quốc tịch và tống xuất  những công dân đã nhập quốc tịch. Có lẽ không còn là chuyện viển vông khi nghĩ rằng một ngày nào đó một người như tôi, sinh tại việt Nam, có thể bị gởi trả về Việt Nam, dù tôi đã nỗ lực tự khẳng định hơn nhiều người Mỹ sinh trưởng tại nơi này. Nếu điều đó xẩy ra, tôi sẽ không mang đứa con trai theo tôi. Việt Nam không phải là quê hương của nó. Mỹ mới là quê hương của nó, và có lẽ nó sẽ nhận thức một thứ tình yêu quê hương đến từ trực giác hơn là từ những chuyện rối rắm phức tạp như trường hợp của tôi.

               Nó cũng sẽ – tôi hy vọng – biết đến thứ tình yêu của người cha ít phức tạp hơn thứ tình yêu của tôi. Tôi không bao giờ nói “Con yêu bố mẹ” khi tôi lớn lên vì cha mẹ tôi không bao giờ nói với tôi rằng “Bố mẹ yêu con.” Điều đó không có nghĩa rằng cha mẹ tôi không yêu tôi. Cha mẹ tôi hết sức yêu tôi cho đến nổi họ phải làm việc đến kiệt lực trên đất nước mới mẻ này. Tôi ít khi về thăm cha mẹ. Khi tôi về, cha mẹ tôi đã quá mệt nhọc đến hết cả vui sướng. Tuy nhiên, dù kiệt lực đi nữa, cha mẹ tôi cũng luôn luôn làm một bữa ăn thường chỉ có thịt luộc. Tôi lớn lên nhờ bộ đồ lòng, lưỡi, gan, bao tử, tim. Nhưng tôi không bao giờ bị bỏ đói.

               Kỷ niệm về thứ tình yêu sâu xa như từ trong máu trong thịt đó, được thể hiện bằng hy sinh, đã thâm nhập vào xương tuỷ của tôi. Một lời nói, hay một giọng nói, có thể khiến tôi cảm nhận được chiều sâu của tình yêu ấy, như có lần tôi thoáng nghe một mẩu chuyện tại cửa hàng dược phẩm vùng tôi ở thuộc thành phố Los Angeles. Người đàn ông ở cạnh tôi là người châu Á, không bảnh bao, ăn mặc làng nhàng. Ông nói vào điện thoại di động bằng giọng miền Nam. “Con oi, Ba day. Con an com chua?” Trông ông hơi thô, có lẽ thuộc giới lao động. Nhưng ông nói với con ông bằng tiếng Việt, giọng nói thật dịu dàng. Không thể nào chuyển dịch được những gì ông nói. Chỉ có thể cảm thấy thôi.

               Dịch sát từng chữ, câu nói đó, ”Hello, child. This is your father. Have you eaten rice yet?” có nghĩa, “Con ơi, Ba đây. Con ăn cơm chưa?” Nó chẳng có nghĩa gì trong tiếng Anh, nhưng trong tiếng Việt, nó là tất cả. “Con ơi, Ba đây. Con ăn cơm chưa?” Đây là cách người chủ tiếp người khách đến nhà mình, bằng lối hỏi khách đã ăn gì chưa. Đây là cách cha mẹ cho con biết họ thương con lắm, nhưng không bao giờ nói, “Bố mẹ thương con”. Tôi lớn lên với những tập tục này, cảm xúc này, thân thương này, nên khi tôi nghe người cha nói với con như thế, tôi muốn trào nước mắt. Đấy là cách tôi biết rằng tôi vẫn là người Việt Nam, vì lịch sử của tôi đã nằm trong máu của tôi và văn hoá của tôi là cuống rốn của tôi. Ngay cả khi tiếng Việt của tôi không hoàn hảo, thật vậy, tôi vẫn thấy mối dây liên hệ với Việt Nam và người tỵ nạn Việt Nam sống trên khắp thế giới.

               Tuy nhiên, khi tôi lớn lên, một số người Mỹ gốc Việt thường bảo tôi rằng tôi quả thật không phải là người Việt Nam vì tôi không nói tiếng Việt sành sõi. Lối phát biểu đó na ná như “yêu nó hay rời nó.” Nhưng có nhiều cách để làm người Việt Nam, cũng như có nhiều cách để làm người Pháp, nhiều cách để làm người Mỹ. Đối với tôi, chừng nào tôi cảm thấy mình là Việt Nam, chừng nào những sự kiện liên quan đến Việt Nam làm tôi xúc động, thì tôi vẫn là Việt Nam. Đấy là phương thức giúp tôi cảm nhận tình yêu quê hương Việt Nam, một trong những quê hương của tôi, và đó cũng là cách tôi nhận ra tôi chính là Việt nam.

               Khi ngang nhiên bảo rằng mình là Việt Nam, không đếm xỉa đến xác nhận của bất kỳ ai khác, tôi cũng tự nhận mình chính là người Mỹ. Chống đối lại tất cả những người bảo “yêu nó hay rời nó”, họ chỉ có một một con đường trở thành người Mỹ, tôi nhấn mạnh rằng nước Mỹ cho phép tôi làm người Việt Nam và được những người khác yêu mến. Cho nên mỗi ngày tôi vẫn hỏi con tôi đã ăn uống gì chưa và thế là mỗi ngày tôi vẫn nói với nó rằng tôi yêu nó. Điều đó cho thấy tình yêu quê hương và tình yêu gia đình không khác nhau. Tôi muốn tạo nên một gia đình nơi đó tôi sẽ không bao giờ phải nói với con tôi “yêu nó hay rời nó”, cũng như tôi mong muốn một quê hương không bao giờ sẽ nói như vậy với bất kỳ ai.

               Đa số người Mỹ không cảm thấy điều mà tôi cảm thấy khi nghe tiếng Việt Nam, nhưng họ cảm thấy tình yêu quê hương theo lối của họ. Có thể họ nhận thức được tình yêu quê hương sâu xa, đầy xúc cảm ấy khi họ thấy lá cờ hoặc nghe bản quốc ca. Tôi xin thú nhận rằng những biểu tượng ấy không mang nhiều ý nghĩa đối với tôi, vì chúng gây chia rẽ cũng như đoàn kết. Quá nhiều người từ cấp cao nhất đến thành phần thấp kém đều đã sử dụng những biểu tượng ấy để chủ yếu là nói với toàn thể người Mỹ rằng hãy  yêu thương đất nước này hay hãy rời bỏ nó.

               Không bị ảnh hưởng bởi lá cờ và quốc thiều không khiến cho tôi kém chất Mỹ hơn những người trân quý những biểu tượng ấy. Phải chăng điều quan trọng hơn đó là tôi yêu thực chất nằm đằng sau những biểu tượng nói trên hơn là  chính những biểu tượng đó. Đó là những nguyên tắc. Dân chủ, bình đẳng, công lý, hy vọng, hòa bình và đặc biệt là tự do, tự do viết lách và suy nghĩ những gì tôi muốn, cho dù những thứ tự do của tôi và cái đẹp của những nguyên tắc trên đều được nuôi dưỡng bằng máu me từ tội diệt chủng, nô lệ, chinh phục, thực dân, chiến tranh đế quốc, chiến tranh miên man. Tất cả những thứ đó là nước Mỹ, nước Mỹ đẹp đẽ và tàn bạo của chúng ta.

 

               Trước kia tôi không hiểu thấu điều mâu thuẫn đó là nước Mỹ của chúng ta, vào giai đoạn tôi còn trẻ sống tại San Diego, California vào những thập niên 1970 và 1980.  Hồi đó tôi chỉ muốn làm người Mỹ  theo lối đơn giản nhất, một phần để chống đối cha tôi đòi hỏi tôi phải 100% Việt Nam. Cha tôi yêu quê hương của ông thật sâu đậm vì ông đã đánh mất nó khi chúng tôi đào thoát khỏi Việt Nam làm người tỵ nạn năm 1975. Nếu cha mẹ tôi bám chặt vào căn cước  và văn hóa Việt Nam, chính vì họ mong muốn lấy lại quê hương đã mất, một tình cảm mà nhiều người Mỹ chắc chắn đã hiểu.

               Thế rồi Mỹ tái lập quan hệ với Việt Nam năm 1994, và cha mẹ tôi nhân cơ hội đầu tiên đó về Việt Nam. Họ về hai lần, không có tôi, để thăm một nước vừa trổi dậy từ nghèo khổ và tuyệt vọng sau chiến tranh. Những gì họ chứng kiến nơi quê cũ đã tác động mạnh nơi cha tôi. Sau chuyến thăm thứ hai, cha mẹ tôi không bao giờ trở lại Việt Nam nữa. Thay vào đó, trong bữa ăn vào Lễ Tạ Ơn kế tiếp, cha tôi nói, “Bây giờ chúng ta là người Mỹ.”

               Cuối cùng cha tôi đã khẳng định là người Mỹ. Lẽ ra tôi phải phấn khởi, và phần nào tôi đã có cảm tưởng ấy khi chúng tôi ngồi trước món ăn gà tây lạ lẫm, khoai tây nghiền, nước xốt cranberry, mà anh tôi anh tôi đã mua từ một siêu thị vì không một ai trong gia đình tôi biết cách nấu những món đặc biệt này mà chúng tôi chỉ ăn mỗi năm một lần. Nhưng nếu tôi cũng thấy không được thoải mái, chính là vì tôi không thể không tự hỏi: Đây là nước Mỹ nào vậy.

                                                                      Nov. 20, 2018            

                                    

  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.