Hôm nay,  

VÔ ĐỀ

24/01/201915:40:00(Xem: 5322)

VÔ ĐỀ

 

Nguyễn Văn Sâm

 

Cho hương hồn bạn, nhà biên khảo sử TĐPhong.

 

Ngữ cặp nách cái bao thơ đựng bản thảo mới in hồi tối, cầm lo le ly cà phê bước ra khỏi tiệm.  Thói quen thường ngày của Ngữ là vô Starbucks mua một ly Cappuccino, kiếm chỗ ngồi xuống ở một cái ghế sofa nào đó trống, nhắm nháp từng chút từng chút, thưởng thức chầm chậm hương vị thơm tho đặc biệt của loại cà phê nầy rồi đứng dậy lững thững ra cửa khi ly còn độ nửa phần.  Gió buốt tháng cuối đông thổi ù ù lạnh cắt tai như thì thầm rủ gọi về nơi miên viễn.  Ngữ rùng mình kéo cao cổ áo hơn, co ro bước lần đến chỗ đậu xe.  Như là hơi choáng váng, như nghe đâu đó đau đau nhè nhẹ trên nửa đỉnh đầu bên mặt.  Đứng lại một phút để định thần và nín thở để cơn đau lướt qua.  Chẳng biết có gì quan trọng không mà chuyện bực mình nầy xảy ra hoài hoài, khám bệnh với biết bao thử nghiệm chẳng thấy gì, mất thời giờ mà triệu chứng trở đi trở lại hằng xuyên như những lời quảng cáo rao hàng trên mấy đài phát thanh địa phương lúc nầy nở rộ trên khắp đất nước định cư.

Ngữ nói với căn bịnh bằng cái mỉm cười hơi meo méo miệng:

“Mầy đã lớn, đã ngon lành thì hiện ra đi, chớ mờ ớ ẩn ẩn hiện hiện tao chán quá rồi, chắc tại hồi tối tao nhâm nhi mấy ly rượu với ba con tôm khô cũ mốc để từ thời cố Hỉ cố Lai tới giờ chứ gì?”

Lại có cơn đau nữa nhoi nhói.  Ngữ tiếp:

“Hay là tại ăn uống mỡ mòng, lòng heo, lòng gà bao nhiêu năm trước khi qua đây?  Lâu rồi bạn ơi, bỏ qua đi Tám.” Ngữ cố tình khôi hài với căn bịnh của mình.

Có tiếng ai đó hỏi trước mặt:

“Sao nói lẩm bẩm một mình vậy chàng, uống cà-phê mà cầm ra ngoài trời lạnh còn đâu là hương vị?”

“Muốn vào lại không, trong đó còn cái sofa trống, tao thích ngồi chỗ đó hơn.”

“Nghe nói độ rày mầy buồn lắm, tới độ chán đời lận, vậy mà còn chọn chỗ ngồi nữa sao?  Thôi vô lại nói chuyện đời chút chút chơi.”

Hai người bạn ngồi yên, nhìn bâng quơ ra ngoài cửa kính, tôn trọng sự suy nghĩ của nhau.

Chừng mười phút, Ngữ phá tan bầu không khí quá tĩnh lặng:

“Nói tao chán đời là sai.  Tao vẫn yêu đời, vẫn còn sẵn sàng đón nhận những thực phẩm của trời đất, vẫn chia sẽ vui buồn của cuộc đời với người chung quanh, vẫn làm tròn bổn phận với các thành viên của gia đình.  Nhưng hơn một năm nay tao không còn tha thiết với chính đời sống nầy nữa cũng như không thấy quí cái con người của tao nữa.  Nó lạnh băng nằm đó, hay hóa hư không cũng chẳng còn quan trọng gì.”

Đôi mắt thằng bạn ngạc nhiên mở to chăm chú nhìn Ngữ.

“Nghĩa là tao cảm nhận cái chết chẳng có gì đáng sợ hải và sự hiện hữu của cá nhân anh chàng Ngữ bằng xương bằng thịt được cái tâm linh vô ảnh gọi là Ngữ đón nhận một cách hững hờ, băng giá.”

“Mầy làm cho cuộc đời rắc rối ra thêm.  Cá nhân bằng xương thịt và tâm linh vô ảnh phải kết hợp làm một mầy mới hiện hữu, mới hoạt động được.  Không có chuyện tách ra làm hai của hai thứ nầy đau con, đừng nghèo mà ham.” Một cái cười phá hơi lớn như khỏa lấp câu chuyện đang có vẽ nặng nề.  “Ông đi đàng ông, bà đi đàng bà là không có tui à nhe!”

“Có thể tao không lý giải được tâm trạng mình nhưng tao dửng dưng và vô cảm với sự chết sống.  Hồi đó nghe những chuyện tự kết thúc đời cách đặc biệt như Ernest Hemingway của Mỹ, Kawabata  của Nhật, gần đây nghe Keven Carter của Nam Phi, Nguyễn Tất Nhiên của Việt Nam tao nghĩ là mấy ông văn nghệ sĩ nầy vô lý bỏ mẹ, nhà văn nhà thơ, nhà nhiếp ảnh nghệ thuật mà, mầy biết đó, lộn xộn rắc rối kinh khủng, họ có những ý nghĩ khác thường lắm, giờ mới thấy họ có cái lý mà mình không thông hiểu được.”

Ngữ đổi tư thế ngồi, đưa chưn thẳng ra trước mặt, thoải mái chờ đợi một câu hỏi.  Người bạn húp một ngụm chocolate nóng, ngó đăm đăm vô mắt Ngữ:

“Cuộc đời nầy luôn luôn có lý và quí giá đối với đa số chúng sanh, nhưng tới lúc nào đó, đối với một cá nhân đặc biệt nào đó, chẳng đáng một đồng xu teng.  Phải không?”

Ngữ mỉm cười gật đầu, nói nhỏ:

“Nhưng tao không đặc biệt!”

Người bạn đổi giọng thân mật và nghiêm chỉnh:

 “Làm bác sĩ mình không giải quyết được ý tưởng khác thường của cậu, nhưng mình nghĩ cậu có bịnh gì đó cậu dấu thin thít không nói ra cho anh em.  Cũng có thể cậu đang bị bịnh … xuống tinh thần, bệnh trầm cảm.  Đây cũng là một thứ bịnh cần bác sĩ chuyên môn chẩn đoán.  Phòng mạch mình luôn luôn mở cửa đối với bạn bè, hôm nào hưỡn huỡn bạn ghé tới.  Lựa lúc hơi chiều chiều tụi mình đi ăn cơm luôn.  Đừng để lâu không tốt.”

Ngữ xiết chặt cái bàn tay mập tròn và trắng trẻo của bạn thay lời cảm ơn.  Anh nói trong khi từ tốn mở cái bao thơ đựng bản thảo nãy giờ để trên đùi:

“Thôi chuyển đề tài!  Khoe với mầy đứa con tinh thần mới của tao, sắp hoàn thành chỉ còn chương cuối và kết luận ngăn ngắn là xong.”

Người bạn nhìn sơ qua cái tựa, lật lướt vài trang, đọc đứt khoảng thật mau, nói:

“Nhân vật lịch sử nầy cần phải được những người như mầy viết để sự thật về biến cố đau thương vừa qua được đánh giá đúng mức.”

“Tao say mê đề tài nầy nhưng viết rồi lại sợ.  Sợ ý nghĩ của mình nổ ra những tranh luận vô ích.  Xưa còn trẻ viết nhiều khi không cần đọc lại và hãnh diện vì điều ngang ngạnh đó, bây giờ lớn tuổi rồi đâm ra sợ chính những điều mình viết.  Sợ lắm mà cái nghiệp nó bắt cứ viết hoài.”

Chia tay bạn, Ngữ loay hoay với ý nghĩa mình đang bị bịnh xuống tinh thần, một căn bịnh tâm lý do cuộc sống quá nhiều chuyện thị phi không đâu kéo tới hằng ngày.  Anh lý luận với chính mình, mình có lo lắng gì đâu, đã gọi là dửng dưng làm sao có lo lắng, còn nói chuyện cười vui bình thường sao gọi là trầm cảm được?  Và Ngữ lúc lắc đầu như muốn xua đi những điều lẩm cẩm… Anh đong đưa gói bánh ngọt người bạn nài nỉ cầm về để ăn buổi xế xế trưa khi buồn miệng.

Một người da trắng râu quai nón, cao lỏng khỏng bước tới xe trước khi cửa được mở, ông ta mỉm cười đau khổ khi Ngữ ngừng tay lại.  Ngữ lên tiếng trước:

“Chào anh, trời lạnh ha!  Mấy hôm nay trời lạnh đột ngột quá!”

Lại cái cười làm thân như thường thấy của những người chưa quen.

“Lạnh thì có lạnh, nhưng lạnh bên trong lòng kẻ không nhà tê tái hơn nhiều.” Anh ta vừa nói vừa ngó chăm chăm ly cà phê trên tay Ngữ. 

“Xin lỗi, tôi uống dang dở, bạn có thể dùng mấy cái nầy.” Ngữ đưa nguyên gói bánh cho người không nhà.  “Lạnh quá chớ không thì tôi đi vào mua ly khác cho bạn.”

“Tôi là Cựu Chiến binh Mỹ ở Việt Nam, Từng đóng ở Cat Lo, Vung Tau.  Có nhiều kỷ niệm thời trẻ của tôi với cái xứ dễ thương của anh….”

“Chúng ta là những người đã tham dự một cuộc chiến kỳ quặc, anh thấy đó, đất nước tôi đến bây giờ vẫn chưa khá gì hơn xưa.”

Ngữ lục lọi trong túi mấy tờ giấy bạc nhăn nhíu, tránh móc bóp trước mặt người lạ.

“Anh bạn cầm đỡ vui mùa Christmas nầy.  Chỉ được có bấy nhiêu vì tôi cũng chẳng may mắn gì hơn bạn lắm đâu.”

Người đàn ông râu quai nón tiếp lấy tiền, bàn tay run run vì cảm động.

“Cám ơn ông, ông dễ tin người quá, đứng nói chuyên thân mật kiểu nầy ông có thể bị nguy hiểm như chơi.”

Ngữ mở cửa xe, leo lên chỗ ngồi, quay cửa xuống nói ra, giọng thiệt vui:

 “Vậy đó, tôi thà bị nguy hiểm hơn là bỏ lỡ dip giúp một người mình có thể giúp.”

Hai người vẫy tay như đôi bạn thân thiết lâu ngày.  Ngữ quay kiếng xe lên, ngó theo cử chỉ co ro của người kia vừa đi vừa thưởng thức cái bánh của mình mà thấy thơ thới trong lòng, cảm giác thanh thản trước những hành vi thiệt bình thường của cuộc sống.  Trong kiếng chiếu hậu Ngữ thấy anh ta còn cố quay người lại để chào lần nữa bằng cánh tay cầm gói bánh giơ lên cao và giọng hét thiệt lớn như muốn át đi tiếng gió: “Chào ông Già Noel, chúc ông Già Noel vui….”

Ngữ chép miệng:

“Cám ơn thực phẩm của đời.”

 

Mở mắt ra Ngữ thấy mình nằm ở chỗ lạ.  Chỉ nhớ được là mình đã té lúc sáng sớm khi thức dậy đi tiểu vài lần như mọi đêm.  Cái té chẳng khác trời giáng và anh nằm mẹp dưới đất luôn, Bà ấy dắt con Ki đi ra công viên sớm, lúc ấy kêu cứu cũng chẳng có ai ở nhà.  Bây giờ thức giấc thấy mình nằm trong một căn phòng hơi xập xệ như là một nhà thương dưỡng lão.  Cùng phòng có cái giường của một ông già cũng dây nhợ chằng chịt như mình.  Đầu óc tỉnh táo, Ngữ đảo mắt quan sát tuy hơi chóng mặt một chút.  Cố gắng nhúc nhích cái đầu qua một bên để nhìn rõ hơn chung quanh nhưng không thể được.  Thử ễnh ngực hay chuyển động phần bụng cho đỡ mỏi cũng không xong.  Ngó xuống chưn thì thấy bít bùng, thử nhúc nhích bàn chưn thì cứng ngắc như thân thể tạc bằng đá.  Chỉ có bắp thịt mặt và hai bàn tay là còn cử động chút chút được thôi. 

Những người của gia đình ông già nằm giường bên tưởng Ngữ mê man nên mặc sức bàn tán cò kè nhau về số tiền bảo hiểm sẽ nhận được.  Ngữ nghe mà ngao ngán, muốn tỉnh dậy để khám phá thêm nữa những thực phẩm chua chát của đời.

Con chị lớn cong cớn nói với đứa em Út vốn lâu nay nuôi cha mình:

“Mầy lấy tiền già của ổng mầy đóng tiền bảo hiểm thì tiền nhận được ít nhứt phải chia cho ba chị em mình, sao mầy đòi lấy hết?  Mầy giàu mà còn tham.”

“Tôi phải nuôi ổng mấy năm nay, vợ con cằn nhằn cực khổ biết là bao nhiêu, tiền đóng bảo hiểm đó là tiền của tôi bỏ ra vì tiền già của ổng bỏ vô chi phí ăn uống, thuốc men và đưa ổng gởi về Việt Nam cho má và bà con.  Bộ chị tưởng tám trăm hằng tháng đủ sao chớ?  Hồi đó giao cho chị nuôi chị lấy tiền đó sao không chịu lãnh?”

Tiếng người khác, như là người anh của thằng Út:

“Mầy nói vậy mà nghe được sao, cha là cha chung thì tiền bảo hiểm của ổng là của chung phải chia ba mới công bình.  Mầy làm bác sĩ giàu quá rồi còn đòi lấy hết coi sao được.”

“Giàu thì sao, tôi học là tiền vay nợ chứ đâu có học bằng tiền của ba đâu, khá chút đỉnh là nhờ bên nhà vợ, hồi đó ba giàu nuôi mấy người ăn học, không lo học bây giờ than nghèo, khó nghe quá…”

Ông già chợt trở mình, thở hắt ra, cái máy chỉ nhịp đập tim của ông bây giờ biểu diễn một lằn xanh dài nằm ngang, tiếng bip bip cũng êm ru….

Cuộc cãi vã xào xáo tạm tan, còn lại là sự ồn ào của tiếng khóc than không nhiều tình cảm.  Ngữ nhắm mắt giả tình không hay biết gì về hoạt cảnh chung quanh.

 

Tôi bỗng nhiên thấy mình muốn sống hết sức.  Hình như tôi chưa biết tình đời kỳ khôi như vậy của ba chị em trong một gia đình mà người nào người nấy cũng lớn hết, cũng thành nhơn chi mỹ hết.  Lỗ mũi ngứa quá muốn đưa tay lên gãi mà dòm lại thì thấy tay mình không nhúc nhích được.  Tôi nhắm mắt, vận dụng hết sức bình sanh để điều khiển bàn tay, nó cũng trơ trơ, chắc là tôi bị liệt toàn thân rồi.  Cổ họng khô rang, khát nước như đương đi trong sa mạc và đói bụng quá chừng.  Đói còn hơn lúc linh đinh ba bốn ngày trên biển cả.

Tôi nhớ lại ông bà mình nói người sắp chết thường khao khát sống, hiện tôi muốn sống quá chừng qua đỗi đi.  Phải cầu Phật Bà Quan Âm, Phật Tổ độ cho tôi đươc sống.  Tôi chưa hiểu hết cuộc đời nầy mà.  Chiến trận.  Tù đày.  Nhục nhã.  Đạp xích lô.  Vợ bỏ.  Con bỏ.  Tôi nhớ hết từng chuyện từng chuyện với thiệt là đầy đủ chi tiết như có khúc phim video chiếu chậm trong đầu.  Nghe văng vẳng người bạn nói “buông xả, buông xả, đừng nhớ chuyện cũ, nhứt là chuyện đau khổ thù hằn”.  Tôi nhắm mắt lại một lúc thiệt lâu.  Nhớ đến những chuyện mình làm tốt.  Cứu đồng đội.  Giúp người khổ nạn.  Sống chết hết mình với bạn đồng thuyền trên biển cả.  Hỗ trợ cho bạn bè thất cơ lỡ vận…Tiếng người bạn tiếp tục: “Buông xả, buông xả, cũng đừng nghĩ tới đến chuyện mình làm tốt ngày trước nữa vì càng nghĩ nhớ thì hồn linh càng bám víu vào đời.” Như là người bạn hát nho nhỏ bài ca chúng tôi rất thích hồi đó, lâu lắm rồi.  Tôi đưa tay lên tắt bài hát….

 

Ngữ mở mắt ra thì thấy mình đương ở phòng khác, người nhà và bạn bè đứng lố nhố quanh giường, không có vợ Ngữ, chỉ có thằng bạn thân.  Người bạn nắm tay Ngữ thân thiết, bịnh nhân cảm giác mình sắp chảy nước mắt.  Người bạn hỏi:

“Biết ai đây không?”

Tiếng trả lời không biến thanh và phát ra với đầy đủ yếu tố tình cảm chứa trong ngôn ngữ nhưng thiệt yếu như mỏn hơi, gần sát bên mới nghe được. 

“Phòng mạch đóng cửa sớm đi thăm bạn hả?”

Người bạn bóp tay Ngữ như từng được bóp cách nay ba tháng trong tiệm cà phê Starkbucks, cười gượng gạo:

“Vậy là cậu ngon lành rồi, rán tỉnh lại để viết cho xong quyển sách đi nhe, mọi người chờ đó.  Cậu viết được lắm.  Số một!”

“Còn bốn quyển nữa chứ không phải chỉ có quyển đó thôi.”

Người bạn buông tay Ngữ ra, xoa xoa dài theo cánh tay trần của Ngữ, mắt nhìn thẳng vào mắt anh lúc nầy đã từ từ nhắm lại, gương mặt xanh xao thất thần.

“Cậu nói với tôi đi, cậu muốn gì, điều cần nhứt là phải thanh thản, buông xả, buông xả.  Đừng nghĩ ngợi lung tung.  Đừng nghĩ tới hận thù hay điều bất hạnh trong đời.”

Người bịnh mấp máy đôi môi, tiếng nói đã biến âm và rất nhỏ, thì thào xa xăm…

“Khát nước và đói bụng lắm cậu à.  Mình chắc sẽ đi vì đói khát.  Buồn ghê!”

“Cậu không nên nói vậy, nên nghĩ đến những điều đã làm tốt trong đời.  Nhân duyên tốt được gợi về làm cho tâm thức mình phấn chấn hơn, nhiều khi bịnh lại lui.”

Ngữ nhớ tới những lúc giúp người, những khi xả thân và lúc dốc túi mình vì người thiên hạ không quen.  Anh thấy thanh thản tuy rằng khát nước quá độ.  Anh thiếp đi, bàn tay trơ trơ trong tay người bạn, cố nói câu: tôi không biết mình đương ham sống hay đương buông đời sống.  Nhưng tiếng nói không phát ra được, mắt anh nhắm nghiền mệt mỏi thiệt là mệt mỏi.  Người bạn áp mặt mình sát tai Ngữ nói buông xả, buông xả rồi hát nho nho:  

Hãy nói về cuộc đời.

Khi tôi không còn nữa.

Sẽ lấy được những gì.

Về bên kia thế giới,

Ngoài trống vắng mà thôi,

Ngữ ơi và tình ơi.[1]

Có tiếng đàn bà hơi lớn giọng trước phòng.  Người bạn đứng dậy, thở dài, im lặng bước ra, rửa tay bằng chất tẩy trùng được gắn gần bên cửa ra vào.  Vô tình anh thấy tấm bảng dán ở đây bằng hai thứ tiếng mà lúc vào vô ý chẳng thấy:

“Vì sức khỏe của bệnh nhân, xin bà con bè bạn đừng vào phòng.”

Người bạn chợt húng hắng ho, anh nhìn hàng cây xơ xác trước cổng bệnh viện, gió đông lạnh thổi bay trần trụi thêm những chiếc lá trên cành vốn đã lơ thơ…. 

Nguyễn Văn Sâm

San Jose, CA, Dec. 10-22, 2009

(Những ngày buồn thế sự)


 



[1] Thơ Du Tử Lê, nhạc Anh Bằng.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.