Hôm nay,  

Thơ, Một Cõi Riêng...

26/04/201920:23:00(Xem: 5432)

 Thơ, Một Cõi Riêng . . .

 

 

Lê Lạc Giao

 

 

Thơ, chỉ một nỗi niềm

Dù cho bao cõi vẫn đời riêng

Như trong bóng xế, chiều nghiêng nắng

mùa cũ về, quay quắt nhớ thương . . .

                                               

Tôi thích thơ từ thuở bé. Kiều, Chinh phụ Ngâm, Cung oán ngâm khúc là những bài thơ dài đầu tiên mà tôi tập đọc từ lúc bắt đầu biết chữ. Đến khi trưởng thành, tôi khám phá ra âm điệu từng bài thơ theo thời gian đã vun đắp, nuôi nấng tình yêu thương trong tôi thêm bao la to lớn, và cũng chính nó biến thành thứ nợ tinh thần trong cuộc đời mình. Yêu thơ  mà xem như nợ quả là một quan niệm khá tiêu cực! Nhưng tính gắn bó của thơ nôm na không phải là một thứ nợ hay sao?  Trong gia đình tôi nhiều người biết làm thơ và tôi có một số bạn bè là thi sĩ. Tôi xin nói thêm chữ thi sĩ dùng ở đây chỉ người làm thơ mà không hàm ý làm thơ hay dở, nổi tiếng hay chỉ là kẻ tấp tểnh sự  nghiệp văn chương.  Chị em, các cháu tôi đều biết làm thơ từ thuở còn học tiểu học và cho đến hôm nay ai nấy đều có những bài thơ hay tập thơ đắc ý của riêng mình. Tôi cũng không loại trừ, nhưng tôi làm thơ rất ít và các bài thơ của tôi giá trị không kém thuốc chữa bệnh. Mỗi khi có chuyện đau buồn tôi lấy thơ ra đọc sau đó dường như cõi lòng nhẹ bớt nỗi đau thương, do đó thơ gắn bó đời tôi trên cả hai mặt vật lý và tinh thần. Tôi nói hơi nhiều về thơ cũng chỉ để giới thiệu với các bạn về một người bạn, người anh thi sĩ của tôi mà cõi thơ của anh ấy đã chi phối không ít nỗi niềm tình cảm riêng tôi. Đấy là cõi thơ thi sĩ Du Tử Lê qua tập thơ “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình” mà tôi mới được anh tặng.

Hôm nay tôi nhắc đến anh như một người anh và một người bạn văn chương từ thuở tôi còn là một học sinh trung học . Năm 1967 tôi mười sáu tuổi và quen biết anh Du Tử Lê qua người chị cả của tôi cũng là người làm thơ.  Năm đầu tiên vào Sài gòn, tôi được anh chở trên chiếc vespa cà tàng đi khắp nơi.  Anh đã giúp tôi chuẩn bị tốt cho kỳ thi vào Cao đẳng Mỹ Thuật Sài gòn dù về sau tôi không theo đuổi nghệ thuật hội họa.  Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi và anh không  gặp được nhau vì anh di tản sang Mỹ trong khi tôi ở lại đi tù, và chỉ gặp lại anh sau khi tôi sang Hoa Kỳ năm 1993. Kỷ niệm với anh Du Tử Lê tôi không bao giờ quên và chúng tôi thường nhắc lại mỗi khi ngồi uống café rồi cười với nhau. 

**

Tập thơ “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình”  gồm 54 bài thơ mà với tôi là một ước muốn: sự trở về. Không hiểu tại sao khi đọc tên tập thơ gồm 8 chữ này tôi nghĩ ngay đến kỳ vọng, ước ao của tác giả. Cách viết tên của mỗi bài thơ cũng mang tích cách đặc biệt của anh, nhưng dù cách nào đi nữa nó cũng hàm chứa ý thơ hay đúng hơn ý nghĩa mà anh đặt cho. Tôi đọc hai ngày tập thơ của anh. Cứ mỗi một bài tôi nhắm mắt và nhớ lại. Đấy là nỗi niềm riêng tôi đối với cõi thơ. Và khi đọc xong tôi hình dung ra được mỗi bài như một hạt sương  kỷ niệm.  Là hạt sương vì những bài thơ là những cảm xúc từ một nỗi niềm và tổng hòa bao kỷ niệm mang dấu ấn vô thường cuộc đời. Dẫu gọi trăm năm nhưng không kém hạt sương đêm, vô cùng thoáng chốc! Đọc kỹ  còn thấy bao ngậm ngùi không ra khỏi nỗi niềm riêng tư của anh đối với phần đời đã qua của mình. Những bài thơ được viết trong ba năm (2016-2019) cũng là những gì riêng tư nỗi niềm của một thời cô đọng trong hồn anh, nhưng tính chất thơ nói lên được những bài thơ của một người qua tuổi 75 sáng tác.

blank 

Bài đầu tiên “ngấn lệ thôi tìm môi tủi thân!.!”  Chỉ một cảm hứng nhưng bản thể lại là ý nghĩa “tìm nhau”. Tìm nhau là một vận hành tương quan nhưng trong bài thơ hàm chứa cả một quá trình cuộc đời. Thời gian từng bước mang cuộc đời thành phế tích. Phế tích thuộc về dĩ vãng nhưng nhìn phế tích, thấy cả một khát vọng sống để rồi từ đó ước ao kỳ vọng cho dẫu bước chân không còn mạnh mẽ như một thời đã qua. Mỗi một khổ thơ, một bắt đầu và chính nó cũng chấm dứt:

“tìm nhau, khi lá chưa lìa gốc”  “tìm nhau, khi gió còn neo sóng” “tìm nhau, trí nhớ chưa lên nước” “tìm nhau, sấp ngửa thời bom, đạn” “tìm nhau, từ đấy như . . . cổ tích”
 

Để rồi tự hỏi:

tìm nhau, ai đã tìm nhau nhỉ?

nghe được gì trong tiếng guốc, xưa?

 

Những bài thơ kế tiếp cũng là các hạt sương vỡ vụn trăm nghìn kỷ niệm đan xen nhau trong tâm cảnh cuộc đời. Đấy là những hồi ức đẹp đẽ xen kẻ những điều ngang trái không ra khỏi ý niệm tao ngộ để rồi chia lìa; là thứ nỗi niềm của chính anh, một chủ thể luôn vực lại bao buồn vui cay đắng được anh viết qua các bài thơ. Những mốc thời gian đi qua cùng địa danh một thời làm nên số phận:  “Pleiku, tháng chạp, cũ,”  là thứ vết cắt ký ức :

 

ký ức tôi , một trưa nào nắng: sốt!

vàng ngang vai, hạt nhớ vịn hiên người

ai trước bảng, còn e rừng thảng thốt:

gọi tên người, buốt một góc chia phôi.

 

Khổ thơ kế: “ký ức tôi, những ngày mưa tháng chạp” “ký ức tôi, vẽ hình ai rạng rỡ” để rồi vết cắt đóng lại:

 

dù người nhớ hay quên thì, cũng vậy

chúng ta đà chạm đến đáy thương yêu.

 

Tập thơ này gồm thật nhiều, những bài thơ chia xẻ. Anh như gửi cho bạn bè, bằng hữu những chất chứa tâm sự qua các câu thơ. Thế mới nói, tất cả đều là những hạt sương kỷ niệm, dù trên hạt sương biểu hiện bao màu sắc rực rỡ hạnh phúc hay đắng cay, chua chát cuộc đời, để rồi những cảm xúc  ấy cô đọng một ước vọng: “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình”.  Tôi nghĩ đây là Theme của tập thơ dù bài thơ chỉ có bốn câu:

 

nghìn năm nữa, tôi vẫn là đứa trẻ,

cần bàn bay của mẹ thuở lên năm.

như mưa / nắng rất cần cho cây, trái;

em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình.

 

Tuổi thơ và tình yêu là khát khao của con người bởi cả hai đều gợi ra một quê hương nếu  hiểu quê hương là nơi bắt đầu trở về. Chỉ bắt đầu và trở về mới có thể biểu hiện trọn vẹn ý nghĩa triết lý đời người. Không phải ai bắt đầu vào đời với một thời boăn khoăn, loay hoay tìm kiếm tình yêu mãi cho đến một ngày nhận ra tuổi thơ là nơi chốn mình khao khát được trở về?  Lúc bấy giờ một đời đã qua và phế tích của nó là phần nền dĩ vãng. Như thế một đời người quay lại để thấy “nghìn năm nữa, tôi vẫn là đứa trẻ,” và lúc này cường độ của hồi ức là “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình.”  Câu kết miêu tả rất đẹp, tuyệt vời cho những người vốn lạc quê hương. Bởi lạc nhưng không  hề mất. Trong cuộc đời bao nhiêu lần đi lạc nên tìm về. Bài thơ của Du Tử Lê nhắc nhở một khát vọng của người đi đoạn đường cuối cuộc đời.

 

Du Tử Lê viết những bài thơ kỷ niệm với những người bạn như nhắc nhở chính mình.  Bài “thơ ở mai thảo,” anh viết để xác nhận giá trị một con người trong hoài niệm sau khi kể những gì xãy ra chung quanh nhà văn Mai Thảo lúc cuối đời:

 

. . .

chẳng phải vì ông đã đi xa. quá xa. rất lâu.

mà. vì họ đã có ông trong tim.

như ông sẽ mãi sống trong ký ức đám đông,

tập thể.

đất nước.

 

Với  nhà thơ Nguyên Sa bài “thơ ở nguyên sa,”  Du Tử Lê nhấn mạnh vị trí Nguyên Sa trên văn đàn và chính anh “tôi ẩn trú trong giao-thông-hào-xanh của thơ Nguyên Sa.”  Trong bài thơ của mình Du Tử Lê trích một số thơ tình Nguyên Sa và anh viết những câu cuối như sau:

 

. . .

dù không biết “Nga” là ai,

nhưng nhiều người trong chúng tôi vẫn thầm cám ơn

linh hồn của những bài thơ hiếm, quý ấy.

như chúng tôi hãnh diện khi 20 năm thơ miền Nam

có được một thi sĩ,

như Nguyên Sa.

 

Và tác giả “Người đi qua đời tôi”,  thi sĩ Trần Dạ Từ bài “thơ ở bạn-tôi-thi-sĩ,”  Du Tử Lê viết như một thứ “kháng thư” sau khi vinh danh vai trò người làm thơ như bạn anh, và lên án những thế lực độc tài đàn áp những người cầm bút:

 

có thể những ngôi nhà chúng ta đang sống

đã xóa sạch hết thảy, mọi thứ,

(luôn cả bạn tôi

một tài năng thi ca ngoại khổ)

nhưng mưa trên những mái nhà quê hương dột, nát,

vẫn thở tiếp những dòng thơ bạn tôi đã viết.

 

Cùng những kỷ niệm đan xen:

 

có thể những ngày vui ngắn ngủi

đã vùi lấp chúng ta

như sớm mai mưa

tuổi thơ cớm.

(những trái sâu ăn từ ruột).

nhưng ánh sáng “nụ hôn đầu”

vẫn rạng ngời trước, sau

một kiếp người

dẫu ngắn

. . .

 

Và những khát vọng con người bị vùi dập, đàn áp:

 

có thể những nhà tù từng nhốt giam thanh xuân bạn

không biết bạn sống / chết!?!

nhưng những bước chân đầu tiên hăm hở,

nâng ngọn cờ phẩm giá con người

biết bạn vẫn sống

. . .

một lần nữa,

lại là chìa khóa . . . “vàng”

để độc tài mở cửa ngục nhốt giam bạn

cùng nhiều người cầm bút khác . . .

hàng chục năm !!!

không xét xử !!!

 

. . . với thời gian cái còn lại mãi mãi:

 

. . .

thời đại chúng ta đang khép lại.

chúng ta rồi cũng sẽ lần lượt đi xa.

nhưng những tận hiến của bạn cho mai sau,

sẽ mãi ở lại

cùng hân-hoan-biển-lớn.

 

 

Viết “như dòng sông tôi, tuổi nhỏ,”  bài thơ một biểu mẫu diễn tả trừu trượng:

 

tôi từng nhốt, giam em trong những khuy áo

mặc vào / cởi ra

ngày / đêm đổi thay thời tiết bốn mùa, bất trắc.

. . .

chỉ những hạt mưa,

vẫn chứa trong nó cả một đại dương thất lạc.

. . .

 

Khổ thơ thứ hai:

 

tôi từng giam, nhốt em trong những tán lá vườn sau,

vô tình chao nghiêng, rình rập ngoài cửa sổ

gió không quên hỏi chúng ta:

-nhớ một thời? góc kín, khuất nào? thân thể?

. . .

ký ức. sầu đông,

thở bằng tim-kỷ niệm.

tôi ôm và, hôn em từ phía sau.

thấy lưng buồn như dòng sông tuổi nhỏ,

bị đánh cắp,

khi chúng chưa kịp tượng hình.

vôi vữa cho đời khác !.!

 

Như một bức abstract expressionism chen lấn những cảm xúc quay quắt, biểu tượng cả tâm hồn và ngoài thân xác. Thật tuyệt vời !

 

Bài thơ “những ngón tay lần, tìm địa chỉ trăm năm,” với subtitle (hay “có một tháng sáu, như thế”) là một cảm xúc bất chợt tồn tại trong không, thời gian thể hiện qua biểu tượng:

 

những con sáo đen đeo khoen vàng, dậy sớm.

đánh thức đám hoa loa kèn trong hồ nước.

không ai hỏi loa kèn thả hương thơm

thử thách khứu-giác-sớm-mai để làm gì?

 

Dù những câu hỏi chỉ để hỏi từ một cảm xúc kéo dài trong trí tưởng mang tính trường cửu trên một cấu trúc vật chất:

. . .

buổi tối quần áo ngủ mới thay của em

khiến trái tim nhiều lần ngưng đập.

từ sau lưng em,

những ngón tay định mệnh lần, tìm

địa chỉ của trăm năm –

(khi tình cờ chúng ta đến,

Rồi ở lại đời sống này).

 

Vẫn chỉ những cảm xúc bất chợt mang tính biểu tượng được biểu hiện qua bài thơ bằng cách sắp xếp những con chữ theo kiểu cách riêng, tài năng đặc biệt của nhà thơ:

 

. . .

bây giờ mùa mưa đã qua.

(ác mộng cũng chọn ngõ khác).

chúng ta vẫn có những đêm tỉnh dậy

nhưng không phải hỏi nhau:

-cần gì?

-đủ thứ!

vì chúng ta đã có với nhau,

nhiều hơn những gì

nhân gian coi là nên có nhiều nhất!.!

mà, không ai,

ngay đời sống,

phải hỏi lại:

-tại sao?

-cớ gì?

-tháng sáu!

như thế!.!

 

Có lẽ bài thơ “mưa qua sông, thập giá cúi thương dòng,” làm tôi  nhớ lại những bài thơ xưa của Du Tử Lê. Với tôi, thơ bảy, tám chữ của anh giàu tính đặc thù. Nghĩa là khi đọc lên chúng ta biết bài thơ do anh sáng tác mà không ngoài ai khác.  Loại thơ này có thể tạm dùng chữ cổ điển vì rất phổ thông nhưng  Du Tử Lê dùng nhiều dấu chấm câu (punctuation) trong thơ. Đặc biệt dấu phẩy, dấu chấm, chấm than, vạch nối, vạch chéo thường được anh xử dụng trong các câu thơ. Phương thức mới này làm thơ anh biểu hiện đậm nét cảm xúc. Du Tử Lê không chỉ cách tân mà còn cách mạng trong phong cách biểu hiện thi ca.

đêm cắt lát những bình minh lỗi hẹn.

thịt, da khuya: mở cửa đón hương, nguồn.

mỗi sợi tóc chờ nghe ! chiều. phiến loạn.

mưa qua sông. thập giá cúi thương dòng.

 

môi an nghỉ chỗ riêng, sau ngấn cổ.

tiếng hát tìm góc phố: ủ tai ương.

vai gom giữ những lần răng … thảm thiết …

sớm mai không độ lượng vết thương, buồn.

 

Bài thơ chỉ tám câu nặng tính biểu hiện được các dấu chấm câu gia tăng cường độ cảm xúc:  phẳng lặng nhưng gợn sóng, có hân hoan nhưng thấp thoáng ngậm ngùi. 

 

Bài tiếp theo “nụ hôn nào cư ngụ với mai sau?” rất nhiều chỗ ngắt câu. Đọc lên cảm giác không thể liên tục diễn ra như ai đó ra dấu phải dừng lại dù tạm thời để chờ ý nghĩa chữ kế tiếp hiện lên:

 

hương thanh-sát chỗ ngồi xưa, em bỏ.

ghế, bàn tôi: thơm một góc thiên thu.

chiều tán lạc mưa mưng. đèn. trí nhớ.

phố chôn chân. hàng cây. đứng. cụt đầu.

 

những vết sẹo tấy sưng cùng cửa, khép.

như nỗi niềm riêng, giữ để mang theo.

sông hỏi suối. phụ lưu tìm hỏi tóc:

-nụ hôn nào cư ngụ với mai sau?

 

. . .

 

khi nước mắt thôi tìm tôi để khóc

dù bóng, hình thức, nhức tự xa xăm

môi khó ấm, khi tiếng cười đã lạnh.

tôi cuộn tôi trong thảm bụi. ai nằm?

 

Chủ đề bài thơ vẫn là hồi ức khi bắt gặp một vết cắt trí nhớ: các dấu chấm câu làm nổi bật niềm cay đắng riêng tư và những câu hỏi cho ai đó lại như hỏi chính mình. Bài thơ “bài nắng, mưa kế tiếp” là một tự sự với mở đầu:

sông núi đã chối từ tên phản bội

giống nòi ta thực sự ở bên kia

chút quê cũ còn nơi đôi-mắt-gió

đã từ em khép lại buổi đêm về

. . .

 

giàu tính độc thoại, tự vấn:

 

ta mất tích giữa  đường ngôi thứ nhất

rẽ bên nào cũng chỉ lấp chôn nhau

đi suốt kiếp vẫn là mưa với nắng

thôi đợi gì nơi kẻ đã vong thân

đời vốn ngắn lối về hoa với cỏ

gọi âm u lên từng phiến thương tâm

. . .

 

Đắm chìm trong trôi nổi, hoài niệm một thuở nào cho đến thực tại hiện tiền:

thân xác nhẹ xe khó đầm tuyệt vọng

một mai tôi không thể ở với đời

người sẽ thấy chẳng cách gì kịp nữa

phấn son nào đi dự một ngày . . . vui

rất thong thả tôi ngồi nghe rã mục

ở bên này hay vẫn ở bên kia

lối quen thuộc ai về nhen bếp lửa

cảnh tượng tôi chăn chiếu cũng ê chề

. . .

Rồi qua ẩn dụ người đàn bà, người mẹ cho đến Quan Âm bồ tát hay chúa Ba Ngôi, tâm tưởng vẫn nổi trôi quanh một tình yêu mang tính cứu rỗi:

. . .

tình yêu ta đi gần hết địa cầu

mai nhìn nhau thấy nhỏ bé năm châu

cả thế giới nở đầy hoa-bồ-tát

môi tháng chạp, tháng giêng em ngào ngạt

miếu đền ta xin mãi thủy tinh ròng

. . .

tôi chẳng thể lắng nguôi hình bóng mẹ

vì qua em tôi thấy mẹ tôi còn

vì qua em tôi rộn rã yêu thương

cả cây cỏ. Ngợi ca người hiếu hạnh

em nhan sắc chưa một lần ố bẩn

ôm tôi đi bằng tay Phật Thích Ca

ghì tôi đi bằng ý Chúa Ngôi Ba

son phấn nữa khắp lòng nhau thơm ngát

. . .

Cuối cùng những câu thơ đóng lại rất lạ lẫm:

 

. . .

tôi đã gọi: này em giờ phút cuối.

rất yêu dấu: với tôi là thứ nhất

nhưng đời sau, ai hiểu? chuyện tôi, em?

hay có người sẽ bảo chúng ta điên

vì chẳng thể đợi chờ nhau kiếp khác.

Kinh-nắng-gió. Như Lai gầy yếu quá.

 

Trong tập thơ có mười ba bài thơ năm chữ. Bài nào cũng hay, lạ. Trong “kịp rơi cùng tiếng nấc” những tự vấn một ta như tồn tại lẫn lộn dư thừa ngày tháng?  Là thứ phế phẩm của đêm, mưa, sông, tai ương, và nhân gian?

 

ta, phế phẩm của đêm?

ai ẩn mình kén, cũ?

vắng, xa đem cuồng điên

dội xuống ta héo quắt

 

ta, phế phẩm của mưa

mong người về theo nắng

dù những bậc thang cao

đã quên ta: chiếc bóng.

 

ta, phế phẩm của sông?

buồn sâu hơn đáy biển

núi neo chân đầu nguồn

xót chim chiều lẻ bạn.

 

ta, phế phẩm tai ương?

lậm căn phần tao loạn

đội-nón-rách-non-sông

mẹ còm nhom: mụn nấm.

 

ta, phế phẩm nhân gian?

dập vùi giông, bão, mới

tìm nhau trong nghiệt oan

hoài công thôi. lá rụng !.!

.

về đi để bước chân

kịp rơi cùng tiếng nấc.

 

khổ cuối cùng hai câu kết một nỗi ngậm ngùi thân phận. Trong bài “lẻ loi từng  hạt bụi,” :

 

. . .

tôi nhìn tôi: rơi. Rơi.

lẻ loi từng hạt bụi.

 

Bài “mưa từ đôi mắt nhau,”:

 

. . .

người về trước trăm năm

thả tàn phai xuống đáy

tôi, một ngân hà, riêng

tình yêu ngoài quỹ đạo (?)

 

Bài: “tôi xóa xong hình tôi / chẳng còn ai nhớ nữa,”:

 

. . .

tôi đi / về vẫn tôi!

đâu ngờ là xác chết !?!

 

mùi hương quen cho môi

/ tôi / nỗi buồn: tháng sáu.

tôi xóa xong hình tôi!

chẳng còn ai nhớ nữa.

 

Riêng bài “thương mẹ đã lưng đồi”  vẫn bắt đầu bằng giới thiệu một ta vô cùng hàm súc:

 

ta, bia mộ lãng quên

níu gì thời đã mất?

mở tung ta. Gió ngất

cháy rực nỗi đìu hiu.

những gì ta đã hỏi:

không một ai trả lời

những điều ta đã nói:

tuồng như mây bay thôi.

trách gì nhân thế đó,

buồn chi nỗi nhục này.

 

có phải đây là nỗi cô đơn nghiệt ngã của người nghệ sĩ :

 

. . .

ta ngồi mòn ghế cũ

nghe mưa trên ngọn cây

muộn phiền còn bủa vây

cách gì ta quăng lưới?

 

trong cô quạnh của đất trời và một đời trãi qua:

 

. . .

thương mẹ đã lưng đồi.

còn nghe rừng hú mãi

. . .

người ngồi trong cõi Cha.

chói lòa ơn nghĩa, mới

biển, bình minh réo gọi

ta hoàng hôn, mất nhau.

 

Du Tử Lê luôn viết về chính mình như một vấn nạn không giải đáp nỗi. Tuy nhiên thơ anh lại là một giải tỏa khắc nghiệt các mâu thuẫn đa dạng đời thường. Đấy chính là cõi riêng của thơ.  Tập thơ “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình” tổng hòa những cảm xúc gặt hái được trong ba năm 2016-2019 từ một con người sống với thơ hơn nửa thế kỷ. Tuy nhiều chủ đề trong tập thơ “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình” như tình yêu, tình bạn, tình quê hương, đất nước … luôn có một nỗi buồn dàn trải suốt tập thơ. Phải chăng đây là thứ số phận thường trực hiện diện trong các bài thơ của Du Tử Lê và  biểu hiện tính trở về vĩnh cửu (eternal recurrence) của một tiền định số phận (predeterminism) trong dòng chảy thời gian?

 

Lê Lạc Giao

Tháng 4/2019

 

  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
Nhiều thế hệ sống ở Sài Gòn những năm của thập niên 80-90, khi con gà trống của Thương Xá Tax chưa bị bức tử, khi những hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng vẫn là nét thơ mộng của Sài Gòn, có lẽ đều quen thuộc với câu “Chương Trình Truyền Hình Đến Đây Là Hết…” Nó thường xuất hiện vào cuối các chương trình tivi tối, khi chưa phát sóng 24/24. Thời đó, mỗi ngày truyền hình chỉ phát sóng trong một số khung giờ nhất định (thường từ chiều đến khuya) nên hầu như ai cũng có tâm lý chờ đợi đến giờ ngồi trước màn ảnh nhỏ, theo dõi vài giờ giải trí. Đó cũng là chút thời gian quên đi một ngày cơ cực, bán mồ hôi cho một bữa cơm độn bo bo thời bao cấp. Nhắc nhớ chút chuyện xưa, để nói chuyện nay, đang diễn ra ở một đất nước văn minh hàng đầu, từng là niềm mơ ước của biết bao quốc gia về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Trên mạng gần đây lan truyền một bức tranh chuỗi tiến hóa ngược nhại kiểu Banksy - vẽ hình ảnh tiến hóa quen thuộc từ khỉ tiến tới người, nhưng đến giữa chặng đường, một gương mặt ai cũng nhận ra quay lưng đi ngược lại về phía khỉ. Cái dáng ngoảnh đầu ấy khiến tôi chạnh lòng nghĩ đến hình ảnh nước Mỹ hôm nay. Giữa thế kỷ XXI, lẽ ra phải tiếp tục đi tới, nhưng thay vì mở rộng tự do học thuật – ngọn nguồn của sáng tạo – chúng ta lại thấy những dấu hiệu nước Mỹ thoái lui theo một quỹ đạo lạ lùng: thử nghiệm một kiểu “tiến hóa ngược”.
Từ khi Tối Cao Pháp Viện lật đổ Roe v. Wade, chúng ta đều biết câu chuyện không dừng lại ở đó. “Để tiểu bang tự quyết” chỉ là cái cớ. Và Texas, tiểu bang bảo thủ dẫn đầu, vừa chứng minh điều đó bằng một luật mới: trao cho bất kỳ ai quyền săn lùng và kiện những người dính dáng tới thuốc phá thai. Texas vốn đã có một trong những lệnh cấm khắc nghiệt nhất: phá thai bị cấm hoàn toàn, trừ vài ca y tế khẩn cấp. Không ngoại lệ cho thai dị tật chết non. Không ngoại lệ cho hiếp dâm. Không ngoại lệ cho loạn luân. Thế nên, nhiều phụ nữ Texas chỉ còn con đường tìm đến thuốc phá thai qua mạng, thường từ những nhà cung cấp ở ngoài tiểu bang. Luật mới nhắm thẳng vào cánh cửa mong manh ấy.
Suốt 250 năm, người Mỹ đồng ý rằng cai trị bởi một người duy nhất là sai lầm, rằng chính quyền liên bang vốn cồng kềnh, kém hiệu quả. Lẽ ra hai điều ấy đủ để ngăn một cá nhân cai trị bằng mệnh lệnh từ Bạch Ốc. Nhưng Trump đang làm đúng điều đó: đưa quân vào thành phố, áp thuế quan, can thiệp vào ngân hàng trung ương, chen vào quyền sở hữu công ty, gieo nỗi sợ để buộc dân chúng cúi đầu. Quyền lực bao trùm, nhưng không được lòng dân. Tỉ lệ chấp thuận của ông âm 14 điểm, chỉ nhỉnh hơn chút so với Joe Biden sau cuộc tranh luận thảm hại năm ngoái. Khi ấy chẳng ai lo ông Biden “quá mạnh”. Vậy tại sao Trump, dù bị đa số phản đối, vẫn dễ dàng thắng thế?
Có bao giờ bạn nói một điều rõ ràng như ban ngày, rồi nghe người khác nhắc lại với nghĩa hoàn toàn khác? Bạn viết xuống một hàng chữ, tin rằng ý mình còn nguyên, thế mà khi quay lại, nó biến thành điều bạn chưa từng nghĩ đến – kiểu như soi gương mà thấy bóng mình méo mó, không phải bị hiểu lầm, mà bị người ta cố ý dựng chuyện. Chữ nghĩa, rơi vào tay kẻ cố ý xuyên tạc, chẳng khác gì tấm gương vỡ. Mỗi mảnh gương phản chiếu một phần, nhưng người ta vẫn đem mảnh vỡ đó làm bằng chứng cho toàn bộ bức tranh. Một câu, một đoạn, một khẩu hiệu – xé khỏi bối cảnh trở nên lệch lạc – hóa thành thứ vũ khí đâm ngược lại chính ý nghĩa ban đầu. Câu chuyện của đạo diễn Trấn Thành gần đây là một minh họa. Anh chỉ viết đôi dòng thương tiếc chia buồn với sự ra đi của nghệ sĩ đàn bầu Phạm Đức Thành. Vậy thôi. Thế mà lập tức bị chụp mũ, bêu riếu, bị gọi “3 que,” “khát nước,” “Cali con.” Người ta diễn giải đủ kiểu, vẽ ra đủ cáo buộc: từ tội mê văn hóa Việt Nam Cộng Hòa đến tội phản quốc.
Sau thất bại trước đối thủ đảng Dân Chủ Joe Biden trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, nội các “gia đình trị” của Donald Trump gần như biến mất khỏi chính trường. Các đồng minh không thể có cùng tiếng nói với Trump, nhất là sau vụ bạo loạn Quốc Hội Jan 06. Duy nhất một người vẫn một lòng trung thành không bỏ rơi Trump, đó chính là Stephen Miller. Nhiệm kỳ hai của Trump, người được cho là có quyền lực hơn trong vòng tròn thân cận của Trump, hơn cả JD Vance, chẳng ai khác hơn chính là Stephen Miller. Để tạo ra những ảnh hưởng chính trong chính quyền Trump hôm nay, Miller đã có một đường dài chuẩn bị, khôn ngoan và nhẫn nại.
Đầu tháng 8 năm 2025, Tổng thống Donald Trump đã ký một mệnh lệnh đặc biệt, chỉ đạo các cơ quan hữu trách lập kế hoạch đưa quân đội Hoa Kỳ đi trấn áp các tổ chức tội phạm ở Mỹ Latinh. Khoảng hai tuần sau, mệnh lệnh đã thành hiện thực. Ba khu trục hạm có gắn phi đạn viễn khiển (guided-missile destroyers) của Hoa Kỳ đã được khai triển tới vùng biển Venezuela, đảm trách việc chặn giữ các chuyến hàng ma túy.
Một góc khuôn viên của Đồi Capitol sáng Thứ Tư là những câu chuyện tưởng đã bị chôn vùi, nay được kể ra trong sự run rẩy, xúc động và cả nước mắt. Trước hàng chục ống kính truyền thông chiếu trực tiếp trên toàn quốc, khoảng mười người phụ nữ lần lượt kể ra câu chuyện của chính mình – nạn nhân của Jeffrey Epstein, tỷ phú tội phạm tình dục và buôn bán mại dâm trẻ vị thành niên. Ngày đó, những phụ nữ này chỉ vừa 16, 18 tuổi, nhỏ nhất là Marina Lacerda, 14 tuổi.
Ở đời, chẳng có ngai vàng nào là miễn phí. Muốn hỏi cưới công chúa thì phải có sính lễ. Làm gì có chuyện đi tay không mà cuỗm được gái đẹp — trừ trường hợp dùng quyền lực bẩn thỉu cưỡng hiếp gái tơ (nghe quen quen). Muốn làm đàng anh đàng chị không thể vừa keo kiệt vừa đòi được người ta kính nể. Quy luật xưa nay không đổi ăn khế thì phải trả vàng. Ngai vàng toàn cầu cũng vậy -- không chỉ làm bằng vàng, mà còn bằng chi phí, lời hứa, và trên hết, là sự tín nhiệm.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.