Hôm nay,  

Thơ, Một Cõi Riêng...

26/04/201920:23:00(Xem: 5428)

 Thơ, Một Cõi Riêng . . .

 

 

Lê Lạc Giao

 

 

Thơ, chỉ một nỗi niềm

Dù cho bao cõi vẫn đời riêng

Như trong bóng xế, chiều nghiêng nắng

mùa cũ về, quay quắt nhớ thương . . .

                                               

Tôi thích thơ từ thuở bé. Kiều, Chinh phụ Ngâm, Cung oán ngâm khúc là những bài thơ dài đầu tiên mà tôi tập đọc từ lúc bắt đầu biết chữ. Đến khi trưởng thành, tôi khám phá ra âm điệu từng bài thơ theo thời gian đã vun đắp, nuôi nấng tình yêu thương trong tôi thêm bao la to lớn, và cũng chính nó biến thành thứ nợ tinh thần trong cuộc đời mình. Yêu thơ  mà xem như nợ quả là một quan niệm khá tiêu cực! Nhưng tính gắn bó của thơ nôm na không phải là một thứ nợ hay sao?  Trong gia đình tôi nhiều người biết làm thơ và tôi có một số bạn bè là thi sĩ. Tôi xin nói thêm chữ thi sĩ dùng ở đây chỉ người làm thơ mà không hàm ý làm thơ hay dở, nổi tiếng hay chỉ là kẻ tấp tểnh sự  nghiệp văn chương.  Chị em, các cháu tôi đều biết làm thơ từ thuở còn học tiểu học và cho đến hôm nay ai nấy đều có những bài thơ hay tập thơ đắc ý của riêng mình. Tôi cũng không loại trừ, nhưng tôi làm thơ rất ít và các bài thơ của tôi giá trị không kém thuốc chữa bệnh. Mỗi khi có chuyện đau buồn tôi lấy thơ ra đọc sau đó dường như cõi lòng nhẹ bớt nỗi đau thương, do đó thơ gắn bó đời tôi trên cả hai mặt vật lý và tinh thần. Tôi nói hơi nhiều về thơ cũng chỉ để giới thiệu với các bạn về một người bạn, người anh thi sĩ của tôi mà cõi thơ của anh ấy đã chi phối không ít nỗi niềm tình cảm riêng tôi. Đấy là cõi thơ thi sĩ Du Tử Lê qua tập thơ “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình” mà tôi mới được anh tặng.

Hôm nay tôi nhắc đến anh như một người anh và một người bạn văn chương từ thuở tôi còn là một học sinh trung học . Năm 1967 tôi mười sáu tuổi và quen biết anh Du Tử Lê qua người chị cả của tôi cũng là người làm thơ.  Năm đầu tiên vào Sài gòn, tôi được anh chở trên chiếc vespa cà tàng đi khắp nơi.  Anh đã giúp tôi chuẩn bị tốt cho kỳ thi vào Cao đẳng Mỹ Thuật Sài gòn dù về sau tôi không theo đuổi nghệ thuật hội họa.  Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi và anh không  gặp được nhau vì anh di tản sang Mỹ trong khi tôi ở lại đi tù, và chỉ gặp lại anh sau khi tôi sang Hoa Kỳ năm 1993. Kỷ niệm với anh Du Tử Lê tôi không bao giờ quên và chúng tôi thường nhắc lại mỗi khi ngồi uống café rồi cười với nhau. 

**

Tập thơ “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình”  gồm 54 bài thơ mà với tôi là một ước muốn: sự trở về. Không hiểu tại sao khi đọc tên tập thơ gồm 8 chữ này tôi nghĩ ngay đến kỳ vọng, ước ao của tác giả. Cách viết tên của mỗi bài thơ cũng mang tích cách đặc biệt của anh, nhưng dù cách nào đi nữa nó cũng hàm chứa ý thơ hay đúng hơn ý nghĩa mà anh đặt cho. Tôi đọc hai ngày tập thơ của anh. Cứ mỗi một bài tôi nhắm mắt và nhớ lại. Đấy là nỗi niềm riêng tôi đối với cõi thơ. Và khi đọc xong tôi hình dung ra được mỗi bài như một hạt sương  kỷ niệm.  Là hạt sương vì những bài thơ là những cảm xúc từ một nỗi niềm và tổng hòa bao kỷ niệm mang dấu ấn vô thường cuộc đời. Dẫu gọi trăm năm nhưng không kém hạt sương đêm, vô cùng thoáng chốc! Đọc kỹ  còn thấy bao ngậm ngùi không ra khỏi nỗi niềm riêng tư của anh đối với phần đời đã qua của mình. Những bài thơ được viết trong ba năm (2016-2019) cũng là những gì riêng tư nỗi niềm của một thời cô đọng trong hồn anh, nhưng tính chất thơ nói lên được những bài thơ của một người qua tuổi 75 sáng tác.

blank 

Bài đầu tiên “ngấn lệ thôi tìm môi tủi thân!.!”  Chỉ một cảm hứng nhưng bản thể lại là ý nghĩa “tìm nhau”. Tìm nhau là một vận hành tương quan nhưng trong bài thơ hàm chứa cả một quá trình cuộc đời. Thời gian từng bước mang cuộc đời thành phế tích. Phế tích thuộc về dĩ vãng nhưng nhìn phế tích, thấy cả một khát vọng sống để rồi từ đó ước ao kỳ vọng cho dẫu bước chân không còn mạnh mẽ như một thời đã qua. Mỗi một khổ thơ, một bắt đầu và chính nó cũng chấm dứt:

“tìm nhau, khi lá chưa lìa gốc”  “tìm nhau, khi gió còn neo sóng” “tìm nhau, trí nhớ chưa lên nước” “tìm nhau, sấp ngửa thời bom, đạn” “tìm nhau, từ đấy như . . . cổ tích”
 

Để rồi tự hỏi:

tìm nhau, ai đã tìm nhau nhỉ?

nghe được gì trong tiếng guốc, xưa?

 

Những bài thơ kế tiếp cũng là các hạt sương vỡ vụn trăm nghìn kỷ niệm đan xen nhau trong tâm cảnh cuộc đời. Đấy là những hồi ức đẹp đẽ xen kẻ những điều ngang trái không ra khỏi ý niệm tao ngộ để rồi chia lìa; là thứ nỗi niềm của chính anh, một chủ thể luôn vực lại bao buồn vui cay đắng được anh viết qua các bài thơ. Những mốc thời gian đi qua cùng địa danh một thời làm nên số phận:  “Pleiku, tháng chạp, cũ,”  là thứ vết cắt ký ức :

 

ký ức tôi , một trưa nào nắng: sốt!

vàng ngang vai, hạt nhớ vịn hiên người

ai trước bảng, còn e rừng thảng thốt:

gọi tên người, buốt một góc chia phôi.

 

Khổ thơ kế: “ký ức tôi, những ngày mưa tháng chạp” “ký ức tôi, vẽ hình ai rạng rỡ” để rồi vết cắt đóng lại:

 

dù người nhớ hay quên thì, cũng vậy

chúng ta đà chạm đến đáy thương yêu.

 

Tập thơ này gồm thật nhiều, những bài thơ chia xẻ. Anh như gửi cho bạn bè, bằng hữu những chất chứa tâm sự qua các câu thơ. Thế mới nói, tất cả đều là những hạt sương kỷ niệm, dù trên hạt sương biểu hiện bao màu sắc rực rỡ hạnh phúc hay đắng cay, chua chát cuộc đời, để rồi những cảm xúc  ấy cô đọng một ước vọng: “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình”.  Tôi nghĩ đây là Theme của tập thơ dù bài thơ chỉ có bốn câu:

 

nghìn năm nữa, tôi vẫn là đứa trẻ,

cần bàn bay của mẹ thuở lên năm.

như mưa / nắng rất cần cho cây, trái;

em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình.

 

Tuổi thơ và tình yêu là khát khao của con người bởi cả hai đều gợi ra một quê hương nếu  hiểu quê hương là nơi bắt đầu trở về. Chỉ bắt đầu và trở về mới có thể biểu hiện trọn vẹn ý nghĩa triết lý đời người. Không phải ai bắt đầu vào đời với một thời boăn khoăn, loay hoay tìm kiếm tình yêu mãi cho đến một ngày nhận ra tuổi thơ là nơi chốn mình khao khát được trở về?  Lúc bấy giờ một đời đã qua và phế tích của nó là phần nền dĩ vãng. Như thế một đời người quay lại để thấy “nghìn năm nữa, tôi vẫn là đứa trẻ,” và lúc này cường độ của hồi ức là “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình.”  Câu kết miêu tả rất đẹp, tuyệt vời cho những người vốn lạc quê hương. Bởi lạc nhưng không  hề mất. Trong cuộc đời bao nhiêu lần đi lạc nên tìm về. Bài thơ của Du Tử Lê nhắc nhở một khát vọng của người đi đoạn đường cuối cuộc đời.

 

Du Tử Lê viết những bài thơ kỷ niệm với những người bạn như nhắc nhở chính mình.  Bài “thơ ở mai thảo,” anh viết để xác nhận giá trị một con người trong hoài niệm sau khi kể những gì xãy ra chung quanh nhà văn Mai Thảo lúc cuối đời:

 

. . .

chẳng phải vì ông đã đi xa. quá xa. rất lâu.

mà. vì họ đã có ông trong tim.

như ông sẽ mãi sống trong ký ức đám đông,

tập thể.

đất nước.

 

Với  nhà thơ Nguyên Sa bài “thơ ở nguyên sa,”  Du Tử Lê nhấn mạnh vị trí Nguyên Sa trên văn đàn và chính anh “tôi ẩn trú trong giao-thông-hào-xanh của thơ Nguyên Sa.”  Trong bài thơ của mình Du Tử Lê trích một số thơ tình Nguyên Sa và anh viết những câu cuối như sau:

 

. . .

dù không biết “Nga” là ai,

nhưng nhiều người trong chúng tôi vẫn thầm cám ơn

linh hồn của những bài thơ hiếm, quý ấy.

như chúng tôi hãnh diện khi 20 năm thơ miền Nam

có được một thi sĩ,

như Nguyên Sa.

 

Và tác giả “Người đi qua đời tôi”,  thi sĩ Trần Dạ Từ bài “thơ ở bạn-tôi-thi-sĩ,”  Du Tử Lê viết như một thứ “kháng thư” sau khi vinh danh vai trò người làm thơ như bạn anh, và lên án những thế lực độc tài đàn áp những người cầm bút:

 

có thể những ngôi nhà chúng ta đang sống

đã xóa sạch hết thảy, mọi thứ,

(luôn cả bạn tôi

một tài năng thi ca ngoại khổ)

nhưng mưa trên những mái nhà quê hương dột, nát,

vẫn thở tiếp những dòng thơ bạn tôi đã viết.

 

Cùng những kỷ niệm đan xen:

 

có thể những ngày vui ngắn ngủi

đã vùi lấp chúng ta

như sớm mai mưa

tuổi thơ cớm.

(những trái sâu ăn từ ruột).

nhưng ánh sáng “nụ hôn đầu”

vẫn rạng ngời trước, sau

một kiếp người

dẫu ngắn

. . .

 

Và những khát vọng con người bị vùi dập, đàn áp:

 

có thể những nhà tù từng nhốt giam thanh xuân bạn

không biết bạn sống / chết!?!

nhưng những bước chân đầu tiên hăm hở,

nâng ngọn cờ phẩm giá con người

biết bạn vẫn sống

. . .

một lần nữa,

lại là chìa khóa . . . “vàng”

để độc tài mở cửa ngục nhốt giam bạn

cùng nhiều người cầm bút khác . . .

hàng chục năm !!!

không xét xử !!!

 

. . . với thời gian cái còn lại mãi mãi:

 

. . .

thời đại chúng ta đang khép lại.

chúng ta rồi cũng sẽ lần lượt đi xa.

nhưng những tận hiến của bạn cho mai sau,

sẽ mãi ở lại

cùng hân-hoan-biển-lớn.

 

 

Viết “như dòng sông tôi, tuổi nhỏ,”  bài thơ một biểu mẫu diễn tả trừu trượng:

 

tôi từng nhốt, giam em trong những khuy áo

mặc vào / cởi ra

ngày / đêm đổi thay thời tiết bốn mùa, bất trắc.

. . .

chỉ những hạt mưa,

vẫn chứa trong nó cả một đại dương thất lạc.

. . .

 

Khổ thơ thứ hai:

 

tôi từng giam, nhốt em trong những tán lá vườn sau,

vô tình chao nghiêng, rình rập ngoài cửa sổ

gió không quên hỏi chúng ta:

-nhớ một thời? góc kín, khuất nào? thân thể?

. . .

ký ức. sầu đông,

thở bằng tim-kỷ niệm.

tôi ôm và, hôn em từ phía sau.

thấy lưng buồn như dòng sông tuổi nhỏ,

bị đánh cắp,

khi chúng chưa kịp tượng hình.

vôi vữa cho đời khác !.!

 

Như một bức abstract expressionism chen lấn những cảm xúc quay quắt, biểu tượng cả tâm hồn và ngoài thân xác. Thật tuyệt vời !

 

Bài thơ “những ngón tay lần, tìm địa chỉ trăm năm,” với subtitle (hay “có một tháng sáu, như thế”) là một cảm xúc bất chợt tồn tại trong không, thời gian thể hiện qua biểu tượng:

 

những con sáo đen đeo khoen vàng, dậy sớm.

đánh thức đám hoa loa kèn trong hồ nước.

không ai hỏi loa kèn thả hương thơm

thử thách khứu-giác-sớm-mai để làm gì?

 

Dù những câu hỏi chỉ để hỏi từ một cảm xúc kéo dài trong trí tưởng mang tính trường cửu trên một cấu trúc vật chất:

. . .

buổi tối quần áo ngủ mới thay của em

khiến trái tim nhiều lần ngưng đập.

từ sau lưng em,

những ngón tay định mệnh lần, tìm

địa chỉ của trăm năm –

(khi tình cờ chúng ta đến,

Rồi ở lại đời sống này).

 

Vẫn chỉ những cảm xúc bất chợt mang tính biểu tượng được biểu hiện qua bài thơ bằng cách sắp xếp những con chữ theo kiểu cách riêng, tài năng đặc biệt của nhà thơ:

 

. . .

bây giờ mùa mưa đã qua.

(ác mộng cũng chọn ngõ khác).

chúng ta vẫn có những đêm tỉnh dậy

nhưng không phải hỏi nhau:

-cần gì?

-đủ thứ!

vì chúng ta đã có với nhau,

nhiều hơn những gì

nhân gian coi là nên có nhiều nhất!.!

mà, không ai,

ngay đời sống,

phải hỏi lại:

-tại sao?

-cớ gì?

-tháng sáu!

như thế!.!

 

Có lẽ bài thơ “mưa qua sông, thập giá cúi thương dòng,” làm tôi  nhớ lại những bài thơ xưa của Du Tử Lê. Với tôi, thơ bảy, tám chữ của anh giàu tính đặc thù. Nghĩa là khi đọc lên chúng ta biết bài thơ do anh sáng tác mà không ngoài ai khác.  Loại thơ này có thể tạm dùng chữ cổ điển vì rất phổ thông nhưng  Du Tử Lê dùng nhiều dấu chấm câu (punctuation) trong thơ. Đặc biệt dấu phẩy, dấu chấm, chấm than, vạch nối, vạch chéo thường được anh xử dụng trong các câu thơ. Phương thức mới này làm thơ anh biểu hiện đậm nét cảm xúc. Du Tử Lê không chỉ cách tân mà còn cách mạng trong phong cách biểu hiện thi ca.

đêm cắt lát những bình minh lỗi hẹn.

thịt, da khuya: mở cửa đón hương, nguồn.

mỗi sợi tóc chờ nghe ! chiều. phiến loạn.

mưa qua sông. thập giá cúi thương dòng.

 

môi an nghỉ chỗ riêng, sau ngấn cổ.

tiếng hát tìm góc phố: ủ tai ương.

vai gom giữ những lần răng … thảm thiết …

sớm mai không độ lượng vết thương, buồn.

 

Bài thơ chỉ tám câu nặng tính biểu hiện được các dấu chấm câu gia tăng cường độ cảm xúc:  phẳng lặng nhưng gợn sóng, có hân hoan nhưng thấp thoáng ngậm ngùi. 

 

Bài tiếp theo “nụ hôn nào cư ngụ với mai sau?” rất nhiều chỗ ngắt câu. Đọc lên cảm giác không thể liên tục diễn ra như ai đó ra dấu phải dừng lại dù tạm thời để chờ ý nghĩa chữ kế tiếp hiện lên:

 

hương thanh-sát chỗ ngồi xưa, em bỏ.

ghế, bàn tôi: thơm một góc thiên thu.

chiều tán lạc mưa mưng. đèn. trí nhớ.

phố chôn chân. hàng cây. đứng. cụt đầu.

 

những vết sẹo tấy sưng cùng cửa, khép.

như nỗi niềm riêng, giữ để mang theo.

sông hỏi suối. phụ lưu tìm hỏi tóc:

-nụ hôn nào cư ngụ với mai sau?

 

. . .

 

khi nước mắt thôi tìm tôi để khóc

dù bóng, hình thức, nhức tự xa xăm

môi khó ấm, khi tiếng cười đã lạnh.

tôi cuộn tôi trong thảm bụi. ai nằm?

 

Chủ đề bài thơ vẫn là hồi ức khi bắt gặp một vết cắt trí nhớ: các dấu chấm câu làm nổi bật niềm cay đắng riêng tư và những câu hỏi cho ai đó lại như hỏi chính mình. Bài thơ “bài nắng, mưa kế tiếp” là một tự sự với mở đầu:

sông núi đã chối từ tên phản bội

giống nòi ta thực sự ở bên kia

chút quê cũ còn nơi đôi-mắt-gió

đã từ em khép lại buổi đêm về

. . .

 

giàu tính độc thoại, tự vấn:

 

ta mất tích giữa  đường ngôi thứ nhất

rẽ bên nào cũng chỉ lấp chôn nhau

đi suốt kiếp vẫn là mưa với nắng

thôi đợi gì nơi kẻ đã vong thân

đời vốn ngắn lối về hoa với cỏ

gọi âm u lên từng phiến thương tâm

. . .

 

Đắm chìm trong trôi nổi, hoài niệm một thuở nào cho đến thực tại hiện tiền:

thân xác nhẹ xe khó đầm tuyệt vọng

một mai tôi không thể ở với đời

người sẽ thấy chẳng cách gì kịp nữa

phấn son nào đi dự một ngày . . . vui

rất thong thả tôi ngồi nghe rã mục

ở bên này hay vẫn ở bên kia

lối quen thuộc ai về nhen bếp lửa

cảnh tượng tôi chăn chiếu cũng ê chề

. . .

Rồi qua ẩn dụ người đàn bà, người mẹ cho đến Quan Âm bồ tát hay chúa Ba Ngôi, tâm tưởng vẫn nổi trôi quanh một tình yêu mang tính cứu rỗi:

. . .

tình yêu ta đi gần hết địa cầu

mai nhìn nhau thấy nhỏ bé năm châu

cả thế giới nở đầy hoa-bồ-tát

môi tháng chạp, tháng giêng em ngào ngạt

miếu đền ta xin mãi thủy tinh ròng

. . .

tôi chẳng thể lắng nguôi hình bóng mẹ

vì qua em tôi thấy mẹ tôi còn

vì qua em tôi rộn rã yêu thương

cả cây cỏ. Ngợi ca người hiếu hạnh

em nhan sắc chưa một lần ố bẩn

ôm tôi đi bằng tay Phật Thích Ca

ghì tôi đi bằng ý Chúa Ngôi Ba

son phấn nữa khắp lòng nhau thơm ngát

. . .

Cuối cùng những câu thơ đóng lại rất lạ lẫm:

 

. . .

tôi đã gọi: này em giờ phút cuối.

rất yêu dấu: với tôi là thứ nhất

nhưng đời sau, ai hiểu? chuyện tôi, em?

hay có người sẽ bảo chúng ta điên

vì chẳng thể đợi chờ nhau kiếp khác.

Kinh-nắng-gió. Như Lai gầy yếu quá.

 

Trong tập thơ có mười ba bài thơ năm chữ. Bài nào cũng hay, lạ. Trong “kịp rơi cùng tiếng nấc” những tự vấn một ta như tồn tại lẫn lộn dư thừa ngày tháng?  Là thứ phế phẩm của đêm, mưa, sông, tai ương, và nhân gian?

 

ta, phế phẩm của đêm?

ai ẩn mình kén, cũ?

vắng, xa đem cuồng điên

dội xuống ta héo quắt

 

ta, phế phẩm của mưa

mong người về theo nắng

dù những bậc thang cao

đã quên ta: chiếc bóng.

 

ta, phế phẩm của sông?

buồn sâu hơn đáy biển

núi neo chân đầu nguồn

xót chim chiều lẻ bạn.

 

ta, phế phẩm tai ương?

lậm căn phần tao loạn

đội-nón-rách-non-sông

mẹ còm nhom: mụn nấm.

 

ta, phế phẩm nhân gian?

dập vùi giông, bão, mới

tìm nhau trong nghiệt oan

hoài công thôi. lá rụng !.!

.

về đi để bước chân

kịp rơi cùng tiếng nấc.

 

khổ cuối cùng hai câu kết một nỗi ngậm ngùi thân phận. Trong bài “lẻ loi từng  hạt bụi,” :

 

. . .

tôi nhìn tôi: rơi. Rơi.

lẻ loi từng hạt bụi.

 

Bài “mưa từ đôi mắt nhau,”:

 

. . .

người về trước trăm năm

thả tàn phai xuống đáy

tôi, một ngân hà, riêng

tình yêu ngoài quỹ đạo (?)

 

Bài: “tôi xóa xong hình tôi / chẳng còn ai nhớ nữa,”:

 

. . .

tôi đi / về vẫn tôi!

đâu ngờ là xác chết !?!

 

mùi hương quen cho môi

/ tôi / nỗi buồn: tháng sáu.

tôi xóa xong hình tôi!

chẳng còn ai nhớ nữa.

 

Riêng bài “thương mẹ đã lưng đồi”  vẫn bắt đầu bằng giới thiệu một ta vô cùng hàm súc:

 

ta, bia mộ lãng quên

níu gì thời đã mất?

mở tung ta. Gió ngất

cháy rực nỗi đìu hiu.

những gì ta đã hỏi:

không một ai trả lời

những điều ta đã nói:

tuồng như mây bay thôi.

trách gì nhân thế đó,

buồn chi nỗi nhục này.

 

có phải đây là nỗi cô đơn nghiệt ngã của người nghệ sĩ :

 

. . .

ta ngồi mòn ghế cũ

nghe mưa trên ngọn cây

muộn phiền còn bủa vây

cách gì ta quăng lưới?

 

trong cô quạnh của đất trời và một đời trãi qua:

 

. . .

thương mẹ đã lưng đồi.

còn nghe rừng hú mãi

. . .

người ngồi trong cõi Cha.

chói lòa ơn nghĩa, mới

biển, bình minh réo gọi

ta hoàng hôn, mất nhau.

 

Du Tử Lê luôn viết về chính mình như một vấn nạn không giải đáp nỗi. Tuy nhiên thơ anh lại là một giải tỏa khắc nghiệt các mâu thuẫn đa dạng đời thường. Đấy chính là cõi riêng của thơ.  Tập thơ “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình” tổng hòa những cảm xúc gặt hái được trong ba năm 2016-2019 từ một con người sống với thơ hơn nửa thế kỷ. Tuy nhiều chủ đề trong tập thơ “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình” như tình yêu, tình bạn, tình quê hương, đất nước … luôn có một nỗi buồn dàn trải suốt tập thơ. Phải chăng đây là thứ số phận thường trực hiện diện trong các bài thơ của Du Tử Lê và  biểu hiện tính trở về vĩnh cửu (eternal recurrence) của một tiền định số phận (predeterminism) trong dòng chảy thời gian?

 

Lê Lạc Giao

Tháng 4/2019

 

  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.