Hôm nay,  

Thơ, Một Cõi Riêng...

26/04/201920:23:00(Xem: 5434)

 Thơ, Một Cõi Riêng . . .

 

 

Lê Lạc Giao

 

 

Thơ, chỉ một nỗi niềm

Dù cho bao cõi vẫn đời riêng

Như trong bóng xế, chiều nghiêng nắng

mùa cũ về, quay quắt nhớ thương . . .

                                               

Tôi thích thơ từ thuở bé. Kiều, Chinh phụ Ngâm, Cung oán ngâm khúc là những bài thơ dài đầu tiên mà tôi tập đọc từ lúc bắt đầu biết chữ. Đến khi trưởng thành, tôi khám phá ra âm điệu từng bài thơ theo thời gian đã vun đắp, nuôi nấng tình yêu thương trong tôi thêm bao la to lớn, và cũng chính nó biến thành thứ nợ tinh thần trong cuộc đời mình. Yêu thơ  mà xem như nợ quả là một quan niệm khá tiêu cực! Nhưng tính gắn bó của thơ nôm na không phải là một thứ nợ hay sao?  Trong gia đình tôi nhiều người biết làm thơ và tôi có một số bạn bè là thi sĩ. Tôi xin nói thêm chữ thi sĩ dùng ở đây chỉ người làm thơ mà không hàm ý làm thơ hay dở, nổi tiếng hay chỉ là kẻ tấp tểnh sự  nghiệp văn chương.  Chị em, các cháu tôi đều biết làm thơ từ thuở còn học tiểu học và cho đến hôm nay ai nấy đều có những bài thơ hay tập thơ đắc ý của riêng mình. Tôi cũng không loại trừ, nhưng tôi làm thơ rất ít và các bài thơ của tôi giá trị không kém thuốc chữa bệnh. Mỗi khi có chuyện đau buồn tôi lấy thơ ra đọc sau đó dường như cõi lòng nhẹ bớt nỗi đau thương, do đó thơ gắn bó đời tôi trên cả hai mặt vật lý và tinh thần. Tôi nói hơi nhiều về thơ cũng chỉ để giới thiệu với các bạn về một người bạn, người anh thi sĩ của tôi mà cõi thơ của anh ấy đã chi phối không ít nỗi niềm tình cảm riêng tôi. Đấy là cõi thơ thi sĩ Du Tử Lê qua tập thơ “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình” mà tôi mới được anh tặng.

Hôm nay tôi nhắc đến anh như một người anh và một người bạn văn chương từ thuở tôi còn là một học sinh trung học . Năm 1967 tôi mười sáu tuổi và quen biết anh Du Tử Lê qua người chị cả của tôi cũng là người làm thơ.  Năm đầu tiên vào Sài gòn, tôi được anh chở trên chiếc vespa cà tàng đi khắp nơi.  Anh đã giúp tôi chuẩn bị tốt cho kỳ thi vào Cao đẳng Mỹ Thuật Sài gòn dù về sau tôi không theo đuổi nghệ thuật hội họa.  Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi và anh không  gặp được nhau vì anh di tản sang Mỹ trong khi tôi ở lại đi tù, và chỉ gặp lại anh sau khi tôi sang Hoa Kỳ năm 1993. Kỷ niệm với anh Du Tử Lê tôi không bao giờ quên và chúng tôi thường nhắc lại mỗi khi ngồi uống café rồi cười với nhau. 

**

Tập thơ “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình”  gồm 54 bài thơ mà với tôi là một ước muốn: sự trở về. Không hiểu tại sao khi đọc tên tập thơ gồm 8 chữ này tôi nghĩ ngay đến kỳ vọng, ước ao của tác giả. Cách viết tên của mỗi bài thơ cũng mang tích cách đặc biệt của anh, nhưng dù cách nào đi nữa nó cũng hàm chứa ý thơ hay đúng hơn ý nghĩa mà anh đặt cho. Tôi đọc hai ngày tập thơ của anh. Cứ mỗi một bài tôi nhắm mắt và nhớ lại. Đấy là nỗi niềm riêng tôi đối với cõi thơ. Và khi đọc xong tôi hình dung ra được mỗi bài như một hạt sương  kỷ niệm.  Là hạt sương vì những bài thơ là những cảm xúc từ một nỗi niềm và tổng hòa bao kỷ niệm mang dấu ấn vô thường cuộc đời. Dẫu gọi trăm năm nhưng không kém hạt sương đêm, vô cùng thoáng chốc! Đọc kỹ  còn thấy bao ngậm ngùi không ra khỏi nỗi niềm riêng tư của anh đối với phần đời đã qua của mình. Những bài thơ được viết trong ba năm (2016-2019) cũng là những gì riêng tư nỗi niềm của một thời cô đọng trong hồn anh, nhưng tính chất thơ nói lên được những bài thơ của một người qua tuổi 75 sáng tác.

blank 

Bài đầu tiên “ngấn lệ thôi tìm môi tủi thân!.!”  Chỉ một cảm hứng nhưng bản thể lại là ý nghĩa “tìm nhau”. Tìm nhau là một vận hành tương quan nhưng trong bài thơ hàm chứa cả một quá trình cuộc đời. Thời gian từng bước mang cuộc đời thành phế tích. Phế tích thuộc về dĩ vãng nhưng nhìn phế tích, thấy cả một khát vọng sống để rồi từ đó ước ao kỳ vọng cho dẫu bước chân không còn mạnh mẽ như một thời đã qua. Mỗi một khổ thơ, một bắt đầu và chính nó cũng chấm dứt:

“tìm nhau, khi lá chưa lìa gốc”  “tìm nhau, khi gió còn neo sóng” “tìm nhau, trí nhớ chưa lên nước” “tìm nhau, sấp ngửa thời bom, đạn” “tìm nhau, từ đấy như . . . cổ tích”
 

Để rồi tự hỏi:

tìm nhau, ai đã tìm nhau nhỉ?

nghe được gì trong tiếng guốc, xưa?

 

Những bài thơ kế tiếp cũng là các hạt sương vỡ vụn trăm nghìn kỷ niệm đan xen nhau trong tâm cảnh cuộc đời. Đấy là những hồi ức đẹp đẽ xen kẻ những điều ngang trái không ra khỏi ý niệm tao ngộ để rồi chia lìa; là thứ nỗi niềm của chính anh, một chủ thể luôn vực lại bao buồn vui cay đắng được anh viết qua các bài thơ. Những mốc thời gian đi qua cùng địa danh một thời làm nên số phận:  “Pleiku, tháng chạp, cũ,”  là thứ vết cắt ký ức :

 

ký ức tôi , một trưa nào nắng: sốt!

vàng ngang vai, hạt nhớ vịn hiên người

ai trước bảng, còn e rừng thảng thốt:

gọi tên người, buốt một góc chia phôi.

 

Khổ thơ kế: “ký ức tôi, những ngày mưa tháng chạp” “ký ức tôi, vẽ hình ai rạng rỡ” để rồi vết cắt đóng lại:

 

dù người nhớ hay quên thì, cũng vậy

chúng ta đà chạm đến đáy thương yêu.

 

Tập thơ này gồm thật nhiều, những bài thơ chia xẻ. Anh như gửi cho bạn bè, bằng hữu những chất chứa tâm sự qua các câu thơ. Thế mới nói, tất cả đều là những hạt sương kỷ niệm, dù trên hạt sương biểu hiện bao màu sắc rực rỡ hạnh phúc hay đắng cay, chua chát cuộc đời, để rồi những cảm xúc  ấy cô đọng một ước vọng: “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình”.  Tôi nghĩ đây là Theme của tập thơ dù bài thơ chỉ có bốn câu:

 

nghìn năm nữa, tôi vẫn là đứa trẻ,

cần bàn bay của mẹ thuở lên năm.

như mưa / nắng rất cần cho cây, trái;

em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình.

 

Tuổi thơ và tình yêu là khát khao của con người bởi cả hai đều gợi ra một quê hương nếu  hiểu quê hương là nơi bắt đầu trở về. Chỉ bắt đầu và trở về mới có thể biểu hiện trọn vẹn ý nghĩa triết lý đời người. Không phải ai bắt đầu vào đời với một thời boăn khoăn, loay hoay tìm kiếm tình yêu mãi cho đến một ngày nhận ra tuổi thơ là nơi chốn mình khao khát được trở về?  Lúc bấy giờ một đời đã qua và phế tích của nó là phần nền dĩ vãng. Như thế một đời người quay lại để thấy “nghìn năm nữa, tôi vẫn là đứa trẻ,” và lúc này cường độ của hồi ức là “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình.”  Câu kết miêu tả rất đẹp, tuyệt vời cho những người vốn lạc quê hương. Bởi lạc nhưng không  hề mất. Trong cuộc đời bao nhiêu lần đi lạc nên tìm về. Bài thơ của Du Tử Lê nhắc nhở một khát vọng của người đi đoạn đường cuối cuộc đời.

 

Du Tử Lê viết những bài thơ kỷ niệm với những người bạn như nhắc nhở chính mình.  Bài “thơ ở mai thảo,” anh viết để xác nhận giá trị một con người trong hoài niệm sau khi kể những gì xãy ra chung quanh nhà văn Mai Thảo lúc cuối đời:

 

. . .

chẳng phải vì ông đã đi xa. quá xa. rất lâu.

mà. vì họ đã có ông trong tim.

như ông sẽ mãi sống trong ký ức đám đông,

tập thể.

đất nước.

 

Với  nhà thơ Nguyên Sa bài “thơ ở nguyên sa,”  Du Tử Lê nhấn mạnh vị trí Nguyên Sa trên văn đàn và chính anh “tôi ẩn trú trong giao-thông-hào-xanh của thơ Nguyên Sa.”  Trong bài thơ của mình Du Tử Lê trích một số thơ tình Nguyên Sa và anh viết những câu cuối như sau:

 

. . .

dù không biết “Nga” là ai,

nhưng nhiều người trong chúng tôi vẫn thầm cám ơn

linh hồn của những bài thơ hiếm, quý ấy.

như chúng tôi hãnh diện khi 20 năm thơ miền Nam

có được một thi sĩ,

như Nguyên Sa.

 

Và tác giả “Người đi qua đời tôi”,  thi sĩ Trần Dạ Từ bài “thơ ở bạn-tôi-thi-sĩ,”  Du Tử Lê viết như một thứ “kháng thư” sau khi vinh danh vai trò người làm thơ như bạn anh, và lên án những thế lực độc tài đàn áp những người cầm bút:

 

có thể những ngôi nhà chúng ta đang sống

đã xóa sạch hết thảy, mọi thứ,

(luôn cả bạn tôi

một tài năng thi ca ngoại khổ)

nhưng mưa trên những mái nhà quê hương dột, nát,

vẫn thở tiếp những dòng thơ bạn tôi đã viết.

 

Cùng những kỷ niệm đan xen:

 

có thể những ngày vui ngắn ngủi

đã vùi lấp chúng ta

như sớm mai mưa

tuổi thơ cớm.

(những trái sâu ăn từ ruột).

nhưng ánh sáng “nụ hôn đầu”

vẫn rạng ngời trước, sau

một kiếp người

dẫu ngắn

. . .

 

Và những khát vọng con người bị vùi dập, đàn áp:

 

có thể những nhà tù từng nhốt giam thanh xuân bạn

không biết bạn sống / chết!?!

nhưng những bước chân đầu tiên hăm hở,

nâng ngọn cờ phẩm giá con người

biết bạn vẫn sống

. . .

một lần nữa,

lại là chìa khóa . . . “vàng”

để độc tài mở cửa ngục nhốt giam bạn

cùng nhiều người cầm bút khác . . .

hàng chục năm !!!

không xét xử !!!

 

. . . với thời gian cái còn lại mãi mãi:

 

. . .

thời đại chúng ta đang khép lại.

chúng ta rồi cũng sẽ lần lượt đi xa.

nhưng những tận hiến của bạn cho mai sau,

sẽ mãi ở lại

cùng hân-hoan-biển-lớn.

 

 

Viết “như dòng sông tôi, tuổi nhỏ,”  bài thơ một biểu mẫu diễn tả trừu trượng:

 

tôi từng nhốt, giam em trong những khuy áo

mặc vào / cởi ra

ngày / đêm đổi thay thời tiết bốn mùa, bất trắc.

. . .

chỉ những hạt mưa,

vẫn chứa trong nó cả một đại dương thất lạc.

. . .

 

Khổ thơ thứ hai:

 

tôi từng giam, nhốt em trong những tán lá vườn sau,

vô tình chao nghiêng, rình rập ngoài cửa sổ

gió không quên hỏi chúng ta:

-nhớ một thời? góc kín, khuất nào? thân thể?

. . .

ký ức. sầu đông,

thở bằng tim-kỷ niệm.

tôi ôm và, hôn em từ phía sau.

thấy lưng buồn như dòng sông tuổi nhỏ,

bị đánh cắp,

khi chúng chưa kịp tượng hình.

vôi vữa cho đời khác !.!

 

Như một bức abstract expressionism chen lấn những cảm xúc quay quắt, biểu tượng cả tâm hồn và ngoài thân xác. Thật tuyệt vời !

 

Bài thơ “những ngón tay lần, tìm địa chỉ trăm năm,” với subtitle (hay “có một tháng sáu, như thế”) là một cảm xúc bất chợt tồn tại trong không, thời gian thể hiện qua biểu tượng:

 

những con sáo đen đeo khoen vàng, dậy sớm.

đánh thức đám hoa loa kèn trong hồ nước.

không ai hỏi loa kèn thả hương thơm

thử thách khứu-giác-sớm-mai để làm gì?

 

Dù những câu hỏi chỉ để hỏi từ một cảm xúc kéo dài trong trí tưởng mang tính trường cửu trên một cấu trúc vật chất:

. . .

buổi tối quần áo ngủ mới thay của em

khiến trái tim nhiều lần ngưng đập.

từ sau lưng em,

những ngón tay định mệnh lần, tìm

địa chỉ của trăm năm –

(khi tình cờ chúng ta đến,

Rồi ở lại đời sống này).

 

Vẫn chỉ những cảm xúc bất chợt mang tính biểu tượng được biểu hiện qua bài thơ bằng cách sắp xếp những con chữ theo kiểu cách riêng, tài năng đặc biệt của nhà thơ:

 

. . .

bây giờ mùa mưa đã qua.

(ác mộng cũng chọn ngõ khác).

chúng ta vẫn có những đêm tỉnh dậy

nhưng không phải hỏi nhau:

-cần gì?

-đủ thứ!

vì chúng ta đã có với nhau,

nhiều hơn những gì

nhân gian coi là nên có nhiều nhất!.!

mà, không ai,

ngay đời sống,

phải hỏi lại:

-tại sao?

-cớ gì?

-tháng sáu!

như thế!.!

 

Có lẽ bài thơ “mưa qua sông, thập giá cúi thương dòng,” làm tôi  nhớ lại những bài thơ xưa của Du Tử Lê. Với tôi, thơ bảy, tám chữ của anh giàu tính đặc thù. Nghĩa là khi đọc lên chúng ta biết bài thơ do anh sáng tác mà không ngoài ai khác.  Loại thơ này có thể tạm dùng chữ cổ điển vì rất phổ thông nhưng  Du Tử Lê dùng nhiều dấu chấm câu (punctuation) trong thơ. Đặc biệt dấu phẩy, dấu chấm, chấm than, vạch nối, vạch chéo thường được anh xử dụng trong các câu thơ. Phương thức mới này làm thơ anh biểu hiện đậm nét cảm xúc. Du Tử Lê không chỉ cách tân mà còn cách mạng trong phong cách biểu hiện thi ca.

đêm cắt lát những bình minh lỗi hẹn.

thịt, da khuya: mở cửa đón hương, nguồn.

mỗi sợi tóc chờ nghe ! chiều. phiến loạn.

mưa qua sông. thập giá cúi thương dòng.

 

môi an nghỉ chỗ riêng, sau ngấn cổ.

tiếng hát tìm góc phố: ủ tai ương.

vai gom giữ những lần răng … thảm thiết …

sớm mai không độ lượng vết thương, buồn.

 

Bài thơ chỉ tám câu nặng tính biểu hiện được các dấu chấm câu gia tăng cường độ cảm xúc:  phẳng lặng nhưng gợn sóng, có hân hoan nhưng thấp thoáng ngậm ngùi. 

 

Bài tiếp theo “nụ hôn nào cư ngụ với mai sau?” rất nhiều chỗ ngắt câu. Đọc lên cảm giác không thể liên tục diễn ra như ai đó ra dấu phải dừng lại dù tạm thời để chờ ý nghĩa chữ kế tiếp hiện lên:

 

hương thanh-sát chỗ ngồi xưa, em bỏ.

ghế, bàn tôi: thơm một góc thiên thu.

chiều tán lạc mưa mưng. đèn. trí nhớ.

phố chôn chân. hàng cây. đứng. cụt đầu.

 

những vết sẹo tấy sưng cùng cửa, khép.

như nỗi niềm riêng, giữ để mang theo.

sông hỏi suối. phụ lưu tìm hỏi tóc:

-nụ hôn nào cư ngụ với mai sau?

 

. . .

 

khi nước mắt thôi tìm tôi để khóc

dù bóng, hình thức, nhức tự xa xăm

môi khó ấm, khi tiếng cười đã lạnh.

tôi cuộn tôi trong thảm bụi. ai nằm?

 

Chủ đề bài thơ vẫn là hồi ức khi bắt gặp một vết cắt trí nhớ: các dấu chấm câu làm nổi bật niềm cay đắng riêng tư và những câu hỏi cho ai đó lại như hỏi chính mình. Bài thơ “bài nắng, mưa kế tiếp” là một tự sự với mở đầu:

sông núi đã chối từ tên phản bội

giống nòi ta thực sự ở bên kia

chút quê cũ còn nơi đôi-mắt-gió

đã từ em khép lại buổi đêm về

. . .

 

giàu tính độc thoại, tự vấn:

 

ta mất tích giữa  đường ngôi thứ nhất

rẽ bên nào cũng chỉ lấp chôn nhau

đi suốt kiếp vẫn là mưa với nắng

thôi đợi gì nơi kẻ đã vong thân

đời vốn ngắn lối về hoa với cỏ

gọi âm u lên từng phiến thương tâm

. . .

 

Đắm chìm trong trôi nổi, hoài niệm một thuở nào cho đến thực tại hiện tiền:

thân xác nhẹ xe khó đầm tuyệt vọng

một mai tôi không thể ở với đời

người sẽ thấy chẳng cách gì kịp nữa

phấn son nào đi dự một ngày . . . vui

rất thong thả tôi ngồi nghe rã mục

ở bên này hay vẫn ở bên kia

lối quen thuộc ai về nhen bếp lửa

cảnh tượng tôi chăn chiếu cũng ê chề

. . .

Rồi qua ẩn dụ người đàn bà, người mẹ cho đến Quan Âm bồ tát hay chúa Ba Ngôi, tâm tưởng vẫn nổi trôi quanh một tình yêu mang tính cứu rỗi:

. . .

tình yêu ta đi gần hết địa cầu

mai nhìn nhau thấy nhỏ bé năm châu

cả thế giới nở đầy hoa-bồ-tát

môi tháng chạp, tháng giêng em ngào ngạt

miếu đền ta xin mãi thủy tinh ròng

. . .

tôi chẳng thể lắng nguôi hình bóng mẹ

vì qua em tôi thấy mẹ tôi còn

vì qua em tôi rộn rã yêu thương

cả cây cỏ. Ngợi ca người hiếu hạnh

em nhan sắc chưa một lần ố bẩn

ôm tôi đi bằng tay Phật Thích Ca

ghì tôi đi bằng ý Chúa Ngôi Ba

son phấn nữa khắp lòng nhau thơm ngát

. . .

Cuối cùng những câu thơ đóng lại rất lạ lẫm:

 

. . .

tôi đã gọi: này em giờ phút cuối.

rất yêu dấu: với tôi là thứ nhất

nhưng đời sau, ai hiểu? chuyện tôi, em?

hay có người sẽ bảo chúng ta điên

vì chẳng thể đợi chờ nhau kiếp khác.

Kinh-nắng-gió. Như Lai gầy yếu quá.

 

Trong tập thơ có mười ba bài thơ năm chữ. Bài nào cũng hay, lạ. Trong “kịp rơi cùng tiếng nấc” những tự vấn một ta như tồn tại lẫn lộn dư thừa ngày tháng?  Là thứ phế phẩm của đêm, mưa, sông, tai ương, và nhân gian?

 

ta, phế phẩm của đêm?

ai ẩn mình kén, cũ?

vắng, xa đem cuồng điên

dội xuống ta héo quắt

 

ta, phế phẩm của mưa

mong người về theo nắng

dù những bậc thang cao

đã quên ta: chiếc bóng.

 

ta, phế phẩm của sông?

buồn sâu hơn đáy biển

núi neo chân đầu nguồn

xót chim chiều lẻ bạn.

 

ta, phế phẩm tai ương?

lậm căn phần tao loạn

đội-nón-rách-non-sông

mẹ còm nhom: mụn nấm.

 

ta, phế phẩm nhân gian?

dập vùi giông, bão, mới

tìm nhau trong nghiệt oan

hoài công thôi. lá rụng !.!

.

về đi để bước chân

kịp rơi cùng tiếng nấc.

 

khổ cuối cùng hai câu kết một nỗi ngậm ngùi thân phận. Trong bài “lẻ loi từng  hạt bụi,” :

 

. . .

tôi nhìn tôi: rơi. Rơi.

lẻ loi từng hạt bụi.

 

Bài “mưa từ đôi mắt nhau,”:

 

. . .

người về trước trăm năm

thả tàn phai xuống đáy

tôi, một ngân hà, riêng

tình yêu ngoài quỹ đạo (?)

 

Bài: “tôi xóa xong hình tôi / chẳng còn ai nhớ nữa,”:

 

. . .

tôi đi / về vẫn tôi!

đâu ngờ là xác chết !?!

 

mùi hương quen cho môi

/ tôi / nỗi buồn: tháng sáu.

tôi xóa xong hình tôi!

chẳng còn ai nhớ nữa.

 

Riêng bài “thương mẹ đã lưng đồi”  vẫn bắt đầu bằng giới thiệu một ta vô cùng hàm súc:

 

ta, bia mộ lãng quên

níu gì thời đã mất?

mở tung ta. Gió ngất

cháy rực nỗi đìu hiu.

những gì ta đã hỏi:

không một ai trả lời

những điều ta đã nói:

tuồng như mây bay thôi.

trách gì nhân thế đó,

buồn chi nỗi nhục này.

 

có phải đây là nỗi cô đơn nghiệt ngã của người nghệ sĩ :

 

. . .

ta ngồi mòn ghế cũ

nghe mưa trên ngọn cây

muộn phiền còn bủa vây

cách gì ta quăng lưới?

 

trong cô quạnh của đất trời và một đời trãi qua:

 

. . .

thương mẹ đã lưng đồi.

còn nghe rừng hú mãi

. . .

người ngồi trong cõi Cha.

chói lòa ơn nghĩa, mới

biển, bình minh réo gọi

ta hoàng hôn, mất nhau.

 

Du Tử Lê luôn viết về chính mình như một vấn nạn không giải đáp nỗi. Tuy nhiên thơ anh lại là một giải tỏa khắc nghiệt các mâu thuẫn đa dạng đời thường. Đấy chính là cõi riêng của thơ.  Tập thơ “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình” tổng hòa những cảm xúc gặt hái được trong ba năm 2016-2019 từ một con người sống với thơ hơn nửa thế kỷ. Tuy nhiều chủ đề trong tập thơ “em cho tôi mãi nhé: ấu thơ mình” như tình yêu, tình bạn, tình quê hương, đất nước … luôn có một nỗi buồn dàn trải suốt tập thơ. Phải chăng đây là thứ số phận thường trực hiện diện trong các bài thơ của Du Tử Lê và  biểu hiện tính trở về vĩnh cửu (eternal recurrence) của một tiền định số phận (predeterminism) trong dòng chảy thời gian?

 

Lê Lạc Giao

Tháng 4/2019

 

  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.