Hôm nay,  

Diệt Sợ Hãi

07/06/201916:42:00(Xem: 4440)

blank

Phạm Văn Bản


Đọc hồi ký của Lý Quang Diệu, một mẫu người diệt sợ hãi: Vào buổi sáng thứ Hai, tháng 2, năm 1942 khi đoàn chiến xa Nhật Bản lăn bánh trên đường phố Tân Gia Ba, nghiền nát mộng xâm lăng của thực dân Anh trên đảo quốc sư tử này, và sau đó từng đoàn người dân bị bắt, tải lên xe với bao nỗi kinh hoàng than khóc, trong số ấy có người thanh niên Lý Quang Diệu. Ông nghĩ rằng, nếu mình không “diệt sợ hãi” mà lại tòng phục quân Nhật thì sẽ không còn cơ hội mà trở lại phục vụ quê hương… chợt nảy sinh ý định trốn giặc, ông đã vượt thoát thành công. Cũng buổi chiều hôm ấy, tất cả mọi người đã bị bắt lên xe, đều bị lính Nhật tàn sát, ngoại trừ thanh niên họ Lý sống sót. Lý Quang Diệu thoát chết, và ông không bao giờ quên cuộc thảm sát những người đồng hương trước họng súng bạo hành của chế độ quân phiệt Nhật Bản. Sau chiến tranh ông vào trường đại học Cambridge, Anh Quốc và tốt nghiệp luật sư; về nước năm 1950, ông là thành viên trong đảng Quốc Gia (Nationalist Party), ông nhiệt tình hăng say hoạt động và tạo cho mình vị trí lãnh đạo và trở thành một người danh tiếng.


Lý Quang Diệu tự tin vào khả năng biện luận của mình, ông đứng ra tố cáo những người theo khuynh hướng chế độ chủ nghĩa xã hội (socialism) và chủ nghĩa thực dân (colonialism) đã làm cho nước Tân Gia Ba của ông, chịu nghèo nàn lạc hậu và chậm tiến. Sau 9 năm tranh đấu cho độc lập của dân nước, năm 1959 Lý Quang Diệu chiếm chức Thủ Tướng và thành lập đảng Nhân Dân Hành Động (People’s Action Party), từ đó ông thành công trong vai trò của nhà lãnh đạo Tân Gia Ba, làm cho đất nước này trở thành giàu đẹp và danh tiếng vang vọng khắp thế giới. Thủ tướng Lý Quang Diệu về hưu năm 1990, sau 31 năm cầm quyền lãnh đạo đất nước, ông còn đó để chứng kiến một tương lai rực rỡ với niềm tự tin tự hào của người hành xử bài học diệt sợ hãi trong cuộc đời của mình.


I. Vấn Đề Sợ Hãi


Tại sao người lại sợ người?  - Vì thiếu tự chủ. Tại sao người sợ khả năng? - Vì thiếu tự tin. Sợ là đối lực của tự tin. Sợ là kẻ thù của thành công. Sợ là chướng ngại của việc giúp dân cứu nước. Sợ làm ta bỏ lỡ cơ hội.


Sợ khiến ta mệt mỏi chán chường. Sợ nhắc ta im lặng khi muốn nói. Sợ ru ta an phận nô lệ nhóm bạo quyền. Sợ làm ta liệt kháng trước bất công. Tất cả các nỗi sợ hãi đều bắt nguồn từ khi chúng ta lo lắng, hốt hoảng mà tưởng tượng ra. Sợ khởi đầu bắt nguồn từ trí óc, sợ lan dần ra chân tay, sợ giết chết niềm tự tin và tự hào dân tộc. Vậy, muốn thành công chúng ta phải diệt sợ hãi để xây dựng niềm tin của chính mình. Và muốn diệt sợ hãi, chúng ta cũng phải truy tầm ra căn nguyên lo sợ và tìm phương pháp trị liệu. Để diệt trừ sợ hãi, xây đắp niềm tin chúng ta cần thực hành hai bước như sau:


- Phân loại sợ, tìm hiểu đích xác xem chúng ta đang sợ cái gì.

- Tìm hành động chữa trị, và hoạt động thích ứng với loại sợ đó.


Khi chạm trán với thử thách, khi đối diện với khó khăn, khi đứng trước những công việc lớn nhỏ mỗi người thường có một phản ứng riêng. Có người nhìn sự việc đó với vẻ ung dung nhàn hạ, họ bước tới trả lời “Tôi làm được!” Có người nhìn công việc với một thoáng do dự suy tư rồi đứng yên bất động. Có người vừa chưa thấy rõ sự kiện thì họ đã hoảng hốt và lo lắng sợ hãi. Như thế, những người ung dung nhàn hạ, niềm tin tỏa rạng ở bất cứ nơi đâu hay bất cứ lúc nào kia, phải chăng họ sinh ra là có sẵn niềm tin?


Không. Chắc chắn là không ai sinh ra mà đã có sẵn niềm tin. Những người ấy, họ đã chinh phục lo âu, xóa tan sợ hãi, thu đạt tự tin mỗi lần một ít, và từ từ mà có nhiều để tới lúc họ tràn đầy tự tin.

Mọi người trong chúng ta cũng có cùng tiến trình phát triển, có khác chăng là ở môi trường thuận lợi hoặc bất lợi. Ví dụ, hai em bé cùng vóc dáng và cùng lứa tuổi được mẹ chở tới trường học. Một em vừa tới lớp là nhập bọn và vui vẻ nô đùa… nhưng em kia thì ôm chặt chân mẹ và sợ hãi khóc thét… mặc cho mẹ vỗ về: “Không sao đâu con, có gì mà sợ?” Và người mẹ cố tách em đứng ra xa chừng nào, thì em lại càng níu áo mẹ ghì chặt vì sợ hãi. Mặc cho mẹ em nhắc nhở rằng đừng sợ, thì em lại càng sợ hãi hơn. Nỗi sợ hãi càng tăng, càng tồn tại và hiện hữu nơi em, trong em.


Vậy có phải vì bẩm sinh mà một em dạn dĩ, và một em nhút nhát không? Chắc chắn là không. Em dạn dĩ thì cũng đã phải trải qua những nỗi sợ hãi như em kia. Giờ này, sở dĩ em có được sự can đảm và tự tin để làm bạn với các bạn cùng trường bởi em đã đi chơi nhiều lần. Những trò chơi gặp mặt, tiếp xúc với chúng bạn đã làm cho em quen thuộc, em không còn sợ nữa.

Để phân loại bệnh sợ hãi, chúng ta có thể xem bộ óc con người như một ngân hàng. Mỗi ngày thu thập dữ kiện từ những điều tai nghe mắt thấy, điển hình: các em bé ốm yếu chìa xương, các cụ già rách rưới lang thang, các thiếu phụ bơ vơ trong nỗi đau mất chồng do chiến tranh gây ra… Các cảnh tượng này càng ngày càng lớn dần trong ngân hàng trí nhớ, rồi khi phải suy nghĩ hoặc phải đối diện với trở ngại, thì ngân hàng trí nhớ sẽ hỏi, “Có gặp trở ngại này chưa?

Tiếp đến ngân hàng trí nhớ sẽ cung cấp những tin tức liên quan đến vấn đề đang gặp phải, rồi đào sâu, phân tích, lượng định, tổng hợp, đúc kết và đề ra biện pháp giải quyết trở ngại… theo chiều hướng tốt, xấu, can đảm, tự tin hay yếu hèn, sợ hãi… cũng do bởi ngân hàng trí nhớ tích lũy mà ra.


Vì thế, chúng ta muốn diệt trừ sợ hãi để xây dựng tự tin, thì cần thực hiện hai điều:


- Thu vào ngân hàng trí nhớ của mình những hình ảnh tốt đẹp, hăng hái, thành công.

- Loại bỏ ngân hàng trí nhớ những hình ảnh xấu xa, ù lì, thất bại.


Hãy tập thành thói quen, mỗi đêm trước khi đi vào giấc ngủ, chúng ta ôn lại trong trí nhớ về những điều tốt việc đẹp mà mình đã thấy, đã làm trong ngày. Và từ đó, chúng ta tìm kiếm ra nguyên nhân giúp mình vui sống và làm việc bằng cách thoải mái; đừng cho những mầm mống bi quan, đen tối có cơ hội tồn tại trong tâm trí của mình.


Vẫn biết sợ hãi phát sinh là do tâm lý, và muốn chữa trị thì ta phải dùng tâm lý mới trị liệu được. Nhưng nhà tâm lý học cũng phải đành bó tay, nếu người nhiễm bịnh không chịu thực hiện một điều mà chỉ có chính người nhiễm bịnh sợ hãi đó mới có khả năng làm được. Đó là diệt trừ tư tưởng bi quan, chán nản, tuyệt vọng.


Hầu hết những con bịnh sợ bắt nguồn từ tư tưởng bi quan, chán nản, tuyệt vọng, và những cuộc thất bại đã thường khởi đầu từ bịnh sợ.


Có nhiều gia đình phải đổ vỡ vì do con bịnh sợ mà ra. Họ sợ nên không dám đối diện với sự thật. Họ sợ nên không dám nói ra những điều mình không vừa ý. Họ sợ nên họ bị rơi xuống vực thẳm của tuyệt vọng.


Và cũng bởi chính bịnh sợ, mà nó đã tạo nên những thiên tình sử đẫm lệ, những khúc bi ai khôn tả. Cũng vì sợ, mà khi ta yêu không dám tỏ tình. Cũng vì sợ, mà để cho người yêu bước lên xe hoa về nhà chồng, thì lúc đó ta âm thầm đau khổ, ôm mối tình sầu và oán trách đất trời sao nỡ gây cảnh éo le, phân ly, bẽ bàng. Tất cả vì sợ mà không dám nói!


Có nhiều người sợ nên đã bỏ lỡ cơ hội tiến thân. Trong nghề nghiệp hoặc ngoài xã hội, có nhiều người sợ rằng mình kém khả năng, không dám đương đầu với vai trò được giao phó. Có nhiều người sợ bạo quyền đến nỗi từ bỏ cả bạn bè thân thiết, không dám đến tiếp xúc, không dám nghe điều hay lẽ phải.


Tôi xin đơn cử một mẫu người diệt sợ hãi để thành công, đó là nhân vật lịch sử Lý Quang Diệu thủ tướng của đất nước Tân Gia Ba. Muốn tìm hiểu ông Diệu xóa tan nỗi sợ như thế nào, chúng ta hãy xem lại một phần đời sống cũng như sinh hoạt chính trị của ông.


Lý Quang Diệu biết mở mắt và nhìn ra thế giới bên ngoài, từ một buổi sáng giông tố của ngày Thứ Hai, Tháng Hai, năm 1942, khi thiết đoàn chiến xa Nhật Bản nghiền nát mộng xâm lăng của thực dân Anh tại bán đảo Tân Gia Ba, một vùng đất vốn sẵn an toàn với bao hứa hẹn, thì nay bỗng dưng con người lâm cảnh đói khát sợ hãi.

Quân phiệt Nhật gieo rắc kinh hoàng vào những tháng ngày cuối cùng của cuộc chiến. Từng đoàn người lũ lượt bị bắt tải lên xe với bao kinh hoàng trên nét mặt. Trong nhóm những người bị bắt và kinh hãi ấy, có chàng thanh niên Lý Quang Diệu, chàng nghĩ rằng nếu mình lại khuất phục quân xâm lược, thì chàng sẽ chẳng còn có cơ hội trở về… Đang lúc căng thẳng, lo âu, bối rối thì chàng họ Lý quyết định trốn trại… và những người bị bắt hôm ấy đã bị quân Nhật tàn sát ngay sau đó.


Lý Quang Diệu đã thoát chết, từ đó ông đã không quên bao nỗi kinh hoàng khiếp sợ của những người đồng hương với ông, trước họng súng bạo nghịch, phản văn minh, xử dụng luật rừng mà chém giết của đám quân phiệt Nhật.


Sau chiến tranh, Lý Quang Diệu vào học đại học Cambridge ở Anh Quốc, tốt nghiệp và trở về Tân Gia Ba vào năm 1950, từ một thành viên bình thường của Đảng Quốc Gia (Nationalist Party), ông đã diệt sợ hãi, đã nhiệt tình và hăng say hoạt động để tự tạo cho mình thành người lãnh đạo tên tuổi.


Lý Quang Diệu tự tin vào khả năng biện luận của mình, nên ông đã đứng ra tố cáo chế độ theo chủ nghĩa xã hội (socialism) và chủ nghĩa thực dân (colonialism) đã làm cho nước ông nghèo nàn, tụt hậu và chậm tiến.


Sau 9 năm tranh đấu cho độc lập của xứ sở, năm 1959 Lý Quang Diệu chiếm chức thủ tướng, và thành lập ra Đảng Nhân Dân Hành Động (People’s Action Party). Từ đó ông đã thành công trong vai trò của một nhà lãnh đạo Tân Gia Ba, làm cho nước này trở thành giàu đẹp và tiếng tăm vang dội khu vực Châu Á rồi lan ra khắp thế giới.


Thủ tướng Lý Quang Diệu về hưu năm 1990, sau 31 năm cầm quyền lãnh đạo đất nước. Ông còn đó để chứng kiến tương lai rực rỡ của Tân Gia Ba với niềm tự hào và hãnh diện, mà ông đã hành xử bài học diệt sợ hãi trong cuộc đời của ông.


* * * *


Tại sao người lại phải sợ người? Có phải vì ta mắc cở, thiếu tự tin, thiếu tự chủ khi trước đám đông?

Ta cũng không thể từ chối những hiện tượng sợ người xảy ra nhan nhản trước mắt. Muốn chinh phục, muốn điều trị căn bệnh này, thiết tưởng có cách là người ấy đặt mình vào trường hợp như câu chuyện người cháu trai dưới đây:


Cháu cũng Diệt Sợ Hãi. Nhớ lại ngày mới đi nghĩa vụ, cháu rất nhút nhát và mắc cở. Cháu sợ người, sợ hết mọi người, sợ cán bộ cấp trên, vì cháu sinh ra trong nghịch cảnh thất trận của cha bác. Bởi thế sau năm 1975 cháu không được phép theo học như lớp bạn cùng tuổi, con cháu cán bộ. Và cái học của cháu, cháu được bố cháu cho chuyển sang học nghề, nhưng lớp thợ tiện của cháu lại chỉ học chính trị, học về chủ nghĩa Mác-Lê, hay học tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhìn vào thế giới bao quanh, cháu cảm nhận cháu vô cùng nhục nhã, cháu thua thiệt mọi người. Cháu thấy ai cũng thông minh, ai cũng giỏi hơn cháu về mọi mặt. Cháu sợ người, cháu sinh ra trong thất bại!


Một hôm cơ duyên may đến với cháu, giúp cháu giảm bớt nỗi sợ. Cháu được chuyển về làm một cấp nhỏ trong Viện Quân Y 121, nơi đây cháu gặp gỡ tiếp xúc với nhiều người: người cấp cao, người cấp thấp, người hàm to hàm bé đủ loại. Nguồn gốc nghề nghiệp cũng khác biệt, người sinh viên, người làm nông, người buôn bán… Cháu thấy họ ai cũng giống nhau. Ai mà chẳng thích ăn ngon mặc đẹp, ai mà chẳng muốn học hành, ai mà chẳng nhớ vợ nhớ con. Nhìn chung, họ cũng giống cháu, chẳng có điểm nào khác lạ làm cháu phải sợ họ. Nếu thất học thì cháu tự học, cháu mất dần cảm giác sợ người, lúc đó cháu mới nhớ ra lời bác hai khuyên cháu, “Tự học, tự thắng để chỉ huy, cháu ạ!” Cháu cảm nghiệm câu chuyện Diệt Sợ Hãi này mà bố cháu thường kể về ngày bác hai và gia đình xuống tam bản vượt biên năm xưa.


Bởi đó, cháu khám phá ra, truy cứu ra nguồn gốc của căn bệnh sợ người, cháu sợ vì thiếu văn hóa trường lớp. Và diệt sợ hãi, cháu tự học, học lớp bổ túc, học được chút nào hay chút ấy. Cháu học thuộc lòng và luôn suy nghĩ về những ý tưởng trong bài viết của bác hai. Sau ngày phục viên, cháu về làm việc ở xã nhà, cháu muốn có cơ hội phục vụ cho bà con họ hàng nhà mình, và được bầu làm chủ tịch xã như hôm nay.


Tương tự diệt sợ hãi của người cháu, để chữa trị ta cần khởi đầu với hai nguyên tắc căn bản là (1) tự đặt mình vào hoàn cảnh, vào cùng vị trí ngang hàng với người tiếp xúc. Khi tiếp xúc, ta nghĩ họ (người tiếp xúc) là quan trọng, thì ta cũng là người quan trọng. Ta và họ là hai con người, hai nhân vật quan trọng gặp nhau để bàn bạc, thảo luận những gì mà hai bên cùng có lợi, hữu ích. (2) phát huy phong cách hiểu biết đúng đắn của mình. Trong thảo luận ta cần biểu lộ một thái độ biết lắng nghe, thành thật lắng nghe những ý kiến đúng. Tuyệt đối tránh ý tưởng rằng người ta đang là kẻ đối diện mình, họ không biết gì.


Ngoài bệnh sợ người, ta còn nỗi sợ hãi tiềm ẩn từ trong tâm khảm, từ trong trạng huống bất an như trường hợp của người cháu. Từ tinh thần bất hạnh trong cuộc sống, suy nhược bởi thời thế, thất bại nơi trường ốc, thua thiệt ngoài trường đời… làm gia tăng bệnh sợ hãi. Những nỗi sợ hãi ấy đã hình thành do tâm lý, phương pháp chữa trị cũng cần có một nhà tâm lý học như trong câu chuyện xảy ra sau đây:


Có người mẹ trẻ 30 tuổi với hai đứa con, bà đang rơi vào tình trạng tuyệt vọng. Bà nhìn lại cuộc sống đã qua, chỉ thấy những điều đau khổ và bất hạnh. Những năm tháng cắp sách đi học, những tháng năm lo gánh vác giang sơn nhà chồng… rồi nhu cầu các con với những tháng năm ở nơi mà bà cư ngụ, thì bà chẳng thấy niềm vui mà chỉ tràn ngập bóng tối, khiếm khuyết hạnh phúc. Những sự kiện buồn nản đã in sâu vào trong ký ức của bà, nhà tâm lý học không thể xóa hết những hình ảnh đau khổ trong thâm tâm của bà ngay cùng một lúc. Ông phân ra từng phần nhỏ, do kinh nghiệm của ông, để chữa trị cho bệnh nhân này. Ông chứng minh cho bà thấy cơ hội chuyển mình vươn lên thay vì ngồi than thở, ngắm nhìn bóng tối tuyệt vọng. Ông yêu cầu bà mỗi ngày viết xuống giấy ba việc làm cho bà vui, và đến ngày hẹn, ông đọc lại hết những điều bà vừa ý. Ông giữ phương pháp chữa trị đó liên tiếp ba tháng thì có kết qủa. Bà đã loại bỏ tư tưởng bi quan trong trí óc và bà đã thấy được niềm vui, từ đó bà ngẩng cao đầu đi tới với nếp sống có niềm tin mãnh liệt.


Xem xét câu chuyện trên, ta thấy nhà tâm lý học đã giúp bà mẹ trẻ kia xóa tan sợ hãi, làm lại cuộc đời bằng cách thay thế dần những hình ảnh bi quan, đen tối, tuyệt vọng bằng những hình ảnh lạc quan, tươi sáng, tràn đầy hy vọng và ông đã thành công.


Ở đời có một nỗi sợ đã giết dần giết mòn niềm tự tin, đó là việc làm sai trái. Và làm sao mà ta phân định được việc làm nào đúng, việc làm nào sai? Khách quan mà xét, thì không ai có thể khẳng định được việc làm đúng hoặc sai, trừ khi đương sự có tham dự, có nhìn nhận, có tự xét việc làm đó khi hoàn tất.


- Một gia đình đang sống hạnh phúc, bỗng dưng một trong hai người vợ hoặc chồng đã tạo cuộc tình bí mật với người khác. Mặc dù hành động phản bội chưa ai biết, nhưng người gây ra trong một lúc nào đó cũng ân hận và cảm thấy mình có lỗi, khiến cho họ thường hốt hoảng, mất dần mất mòn niềm tự tin.


- Vì tham vọng cá nhân bất chính, có người dùng thủ đoạn gian manh, tàn ác mà ám hại người ngay thẳng liêm chính. Cho tới khi đạt được mục đích thì lương tâm của họ lại bị cắn rứt, khiến cho họ tinh thần căng thẳng và giảm dần niềm tự tin.


- Trong thương trường có người dùng mưu kế mà lường gạt kẻ khác, rồi dần dà không còn ai tin nữa. Từ đó họ trở thành kẻ cô đơn và mất tự tin.


Bởi thế trong việc xây dựng niềm tự tin cho thanh niên Việt ngày nay là, “Suy nghĩ đúng, hành động đúng giúp ta thêm tự tin.” Ngoài việc diệt trừ sợ hãi chúng ta cần phải hành xử đúng đắn, vì chính việc hành xử đúng đắn mới gíup cho tâm của chúng ta bình, trí của chúng ta được thảnh thơi. Ngược lại, người làm sai thường bị lương tâm cắn rứt, và họ tự giết chết niềm tự tin, hơn thế nữa, kẻ gian dối lường gạt, sớm muộn thì người ta cũng sẽ phát giác, và không còn ai tin tưởng người ấy nữa.


Những nguyên tắc xây niềm tự tin:


- Ngồi phía trước

Trong các cuộc hội họp, lớp học, cơ quan, hãng xưởng, nhà thờ, chùa chiền… muốn tạo được sự tự tin người thanh niên Việt chúng ta nên hiên ngang bước vào những hàng ghế đầu, bởi vì những người ngồi ở hàng ghế sau thường là những người sợ diễn giả hay chủ tọa chú ý, thấy mặt. Họ thiếu tự tin.


- Nhìn thẳng

“Mắt là cửa sổ tâm hồn.” Khi chúng ta nhìn thẳng vào con mắt của người đối diện, ánh mắt của chúng ta sẽ cho họ biết con người của chúng ta, và ngược lại. Nếu chúng ta không dám nhìn thẳng, tức là chúng ta vẫn còn cảm thấy mình nhỏ bé, thua kém và sợ người. Nhìn thẳng là tự tin, là chúng ta chinh phục được sợ người.


- Bước nhanh hơn bình thường

Tôi về Việt Nam thấy mọi người đều chậm chạp, và chúng ta cần sửa lại. Bước nhanh khiến chúng ta cảm nhận rằng mình tự tin, bước nhanh để nói với thế giới bao quanh: “Tôi có việc quan trọng phải làm, tôi có chỗ quan trọng phải tới. Tôi sẽ thành công và tôi bắt đầu ngay từ bây giờ.”

- Tập phát biểu ý kiến

Chúng ta cần tập góp ý, phê bình, đặt câu hỏi trong mỗi cuộc hội họp ở bất cứ nơi đâu. Đừng sợ người khác ganh tị, ghen ghét, hay chê bai… vì nếu họ không đồng ý với lập luận đúng đắn mà chúng ta đề ra, thì cũng còn nhiều người muốn nghe và đồng ý với chúng ta. Phát biểu là điều kiện xây dựng niềm tự tin.


- Cười lớn

Chúng ta cảm thấy như thế nào khi mình cười lớn trong lúc thất bại. Cười lớn giúp chúng ta thêm tự tin, cười lớn phá tan sợ hãi, cuốn trôi bận tâm thất bại, để ta xắn tay áo lên mà làm tiếp, dựng lại cuộc sống an lạc thanh bình hạnh phúc. Cười là liều thuốc tuyệt hảo của tự tin. Ngược lại vẫn có ít người cố gắng cười trong lúc mình gặp sợ hãi hay thất bại.


Bạn hãy cười để thấy sức mạnh nụ cười của bạn.


Tóm lại người thanh niên Việt chúng ta hãy diệt trừ sợ hãi, và xây dựng niềm tin hôm nay để thành công ngày mai trên tiến trình Giúp Dân Cứu Nước.


Phạm Văn Bản

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 22 tháng 6 năm 2020, dự luật An Ninh Quốc Gia về Hồng Kông được đưa ra tại quốc hội của Đảng Cộng Sản Trung Hoa để thông qua, và đêm 30 tháng 6 rạng sáng ngày 1 tháng 7, 2020, sau một phiên họp kín của Ủy Ban Thường Vụ Đại Biểu Nhân Dân (mà thế giới gọi là quốc hội bù nhìn tại Bắc Kinh) dự luật này đã trở thành luật. Ngày mà Luật An Ninh Quốc Gia về Hồng Kông này ra đời cũng trùng ngày mà Hồng Kông được trao trả lại cho China 23 năm trước 01-07-1997 theo thể chế “một nước hai chế độ” (one country two systems). Theo đó Hồng Kông vẫn còn quyền tự trị trong 50 năm từ 1997 đến 2047, và trên lý thuyết Hồng Kông chỉ lệ thuộc vào Bắc Kinh về quân sự và ngoại giao mà thôi.
“Ngày 11/07/1995: Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton và Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt thông báo quyết định bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa 2 nước.” Với quyết định lịch sử này, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng sản đã ghi dấu “gác lại qúa khứ, hướng tới tương lai” được 25 năm vào ngày 11/07/2020. Nhưng thời gian ¼ Thế kỷ bang giao Mỹ-Việt đã đem lại những bài học nào cho hai nước cựu thù, hay Mỹ và Việt Nam Cộng sản vẫn còn những cách biệt không hàn gắn được ?
Trước 1975, ở bùng binh ngã Sáu (kế góc đường Gia Long và Lê Văn Duyệt) có cái biển nhỏ xíu xiu: Sài Gòn – Nam Vang 280 KM. Mỗi lần đi ngang qua đây, tôi đều nhớ đến cái câu ca dao mà mình được nghe từ thưở ấu thơ: Nam Vang đi dễ khó về… Bây giờ thì đi hay về từ Cambodia đều dễ ợt nhưng gần như không còn ma nào muốn hẻo lánh tới cái Xứ Chùa Tháp nghèo nàn này nữa. Cũng nhếch nhác ngột ngạt thấy bà luôn, ai mà tới đó làm chi… cho má nó khi. Thời buổi này phải đi Sing mới đã, dù qua đây rất khó và về thì cũng vậy – cũng chả dễ dàng gì.
Càng gần ngày tranh cử, càng nhiều người biểu lộ yêu mến Tổng thống Donald Trump và ngược lại cũng lắm người bày tỏ chán ghét ông Trump. Có những người ghét ông chỉ vì họ yêu chủ nghĩa xã hội, yêu chủ nghĩa vô chính phủ, lợi dụng cơ hội ông George Floyd bị cảnh sát đè cổ chết đã chiếm khu Capitol Hill, nội đô Seattle, tiểu bang Washington, trong suốt ba tuần trước khi bị giải tán. Nhân 244 năm người Mỹ giành được độc lập từ Anh Quốc, và sau biến cố George Floyd, thử xem nền dân chủ và chính trị Hoa Kỳ sẽ chuyển đổi ra sao?
Tôi có dịp sống qua nhiều nơi và nhận thấy là không nơi đâu mà những từ ngữ “tổ quốc,” “quê hương,” “dân tộc” … được nhắc đến thường xuyên – như ở xứ sở của mình: tổ quốc trên hết, tổ quốc muôn năm, tổ quốc anh hùng, tổ quốc thiêng liêng, tổ quốc bất diệt, tổ quốc muôn đời, tổ quốc thân yêu, tổ quốc trong tim … “Quê hương” và “dân tộc” cũng thế, cũng: vùng dậy, quật khởi, anh dũng, kiên cường, bất khuất, thiêng liêng, hùng tráng, yêu dấu, mến thương …
Nhà xuất bản sách của Bolton, chắc sẽ nhận được khoản thu nhập lớn. Riêng Bolton, chưa chắc đã giữ được hai triệu đô la nhuận bút, nếu bị thua kiện vì đã không tôn trọng một số hạn chế trong quy định dành cho viên chức chính quyền viết sách sau khi rời chức vụ. Điều này đã có nhiều tiền lệ. Là một luật gia, chắc chắn Bolton phải biết. Quyết định làm một việc hệ trọng, có ảnh hưởng tới đại sự, mà không nắm chắc về kết quả tài chính, không phải là người hành động vì tiền. Hơn nữa, nếu hồi ký của Bolton có thể giúp nhiều người tỉnh ngộ, nhìn ra sự thật trước tình hình đất nước nhiễu nhương, thì cũng có thể coi việc làm của ông là thái độ can đảm, được thúc đẩy bởi lòng yêu nước. Không nên vội vàng lên án Bolton, khi ông từ chối ra làm chứng trước Hạ Viện, nếu không bị bắt buộc. Nếu có lệnh triệu tập, ông đã tuân theo. Không có lệnh, ông không ra, vì thừa biết, với thành phần nghị sĩ Cộng Hòa hiện tại, dù ra làm chứng, ông cũng chẳng thay đổi được gì. Dân Biểu Schiff nói: “John Bolton,
Thưở sinh thời – khi vui miệng – có lần soạn giả Nguyễn Phương đã kể lại lúc đưa đám cô Năm Phỉ, và chuyện ông Chín Trích đập vỡ cây đàn: “Ngày cô Năm Phỉ mất, người đến viếng tang nghe nhạc sĩ Chín Trích đàn ròng rã mấy ngày liên tiếp bên quan tài… Ông vừa đờn vừa khóc. Đến lúc động quan, trước khi đạo tỳ đến làm lễ di quan, nhạc sĩ Chín Trích đến lậy lần chót, ông khóc lớn:’ Cô Năm đã mất rồi, từ nay Chín Trích sẽ không còn đờn cho ai ca nữa…’ Nói xong ông đập vỡ cây đờn trước quan tài người quá cố. “Việc xảy quá đột ngột và trong hoàn cảnh bi thương của kẻ còn đang khóc thương người mất, mọi người im lặng chia sẻ nỗi đau của gia đình người quá cố và của nhạc sĩ Chín Trích. Khi hạ huyệt thì người nhà của cô Năm Phỉ chôn luôn cây đàn gãy của nhạc sĩ Chín Trích xuống mộ phần của cô Năm Phỉ.” (Thời Báo USA, số 321, 18/02/2011, trang 67)
Đai sứ Mỹ, Daniel Krintenbrink, phát biểu chiều ngày 2/7 tại Hà Nội, nhân kỷ niệm 25 năm binh thường hóa quan hệ ngoại giao Việt-Mỹ: “Washington sẽ triển khai các hoạt động ngoại giao, hàng hải, và quân sự để bảo đảm hòa bình, ổn định Biển Đông”. Đại Sứ Kritenbrink cho hay, Mỹ sẽ triển khai các hoạt động theo 3 hướng: 1- Tăng hoạt động ngoại giao với các nước trong khu vực, trong đó có ASEAN. 2- Hỗ trợ các nước tăng cường hàng hải, để bảo vệ lợi ích của mình. 3- Phát triển năng lực quân sự Mỹ, trong đó có các hoạt động bảo vệ hàng hải.
Theo các hãng thông tấn và truyền hình lớn của Hoa Kỳ, vào ngày 27/6/2020, Đảng Dân Chủ Quận Hạt Orange đã thông qua nghị quyết khẩn cấp yêu cầu Ban Giám Sát Quận Hạt đổi tên Phi Trường John Wayne (tài tử đóng phim cao-bồi Miền Tây) vì ông này theo chủ nghĩa Da Trắng Là Thượng Đẳng và những tuyên bố mù quáng (bigot). Sự kiện gây ngạc nhiên cho không ít người. Bởi vì đối với các kịch sĩ, ca sĩ, nhạc sĩ, văn-thi-sĩ, họa sĩ, nhất là các tài tử điện ảnh…họ đều có cuộc sống cởi mở, đôi khi phóng túng, buông thả và ít liên hệ tới chính trị. Và nếu có bộc lộ khuynh hướng chính trị thì thường là cấp tiến (Liberal). Vậy tại sao John Wayne lại “dính” vào một vụ tai tiếng như thế này?
Hơn 10 năm trước, chính xác là vào hôm 28 tháng 6 năm 2009, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều có tâm sự (đôi điều) nghe hơi buồn bã: “Khi tiếp xúc với những người nông dân, tôi thường xuyên hỏi về tổng thu nhập mỗi tháng của một khẩu trong một gia đình họ là bao nhiêu. Dù rằng tôi biết họ đang sống một cuộc sống vô cùng vất vả nhưng tôi vẫn kinh ngạc khi nghe một con số cụ thể: ‘Tổng thu nhập một tháng trên một khẩu của chúng tôi là 40.000 đồng.’ Bạn có choáng váng khi mỗi tháng, một người trong mỗi gia đình nông dân chỉ có 40.000 đồng để chi tiêu tất cả những gì họ cần không?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.