Hôm nay,  

Diệt Sợ Hãi

07/06/201916:42:00(Xem: 3967)

blank

Phạm Văn Bản


Đọc hồi ký của Lý Quang Diệu, một mẫu người diệt sợ hãi: Vào buổi sáng thứ Hai, tháng 2, năm 1942 khi đoàn chiến xa Nhật Bản lăn bánh trên đường phố Tân Gia Ba, nghiền nát mộng xâm lăng của thực dân Anh trên đảo quốc sư tử này, và sau đó từng đoàn người dân bị bắt, tải lên xe với bao nỗi kinh hoàng than khóc, trong số ấy có người thanh niên Lý Quang Diệu. Ông nghĩ rằng, nếu mình không “diệt sợ hãi” mà lại tòng phục quân Nhật thì sẽ không còn cơ hội mà trở lại phục vụ quê hương… chợt nảy sinh ý định trốn giặc, ông đã vượt thoát thành công. Cũng buổi chiều hôm ấy, tất cả mọi người đã bị bắt lên xe, đều bị lính Nhật tàn sát, ngoại trừ thanh niên họ Lý sống sót. Lý Quang Diệu thoát chết, và ông không bao giờ quên cuộc thảm sát những người đồng hương trước họng súng bạo hành của chế độ quân phiệt Nhật Bản. Sau chiến tranh ông vào trường đại học Cambridge, Anh Quốc và tốt nghiệp luật sư; về nước năm 1950, ông là thành viên trong đảng Quốc Gia (Nationalist Party), ông nhiệt tình hăng say hoạt động và tạo cho mình vị trí lãnh đạo và trở thành một người danh tiếng.


Lý Quang Diệu tự tin vào khả năng biện luận của mình, ông đứng ra tố cáo những người theo khuynh hướng chế độ chủ nghĩa xã hội (socialism) và chủ nghĩa thực dân (colonialism) đã làm cho nước Tân Gia Ba của ông, chịu nghèo nàn lạc hậu và chậm tiến. Sau 9 năm tranh đấu cho độc lập của dân nước, năm 1959 Lý Quang Diệu chiếm chức Thủ Tướng và thành lập đảng Nhân Dân Hành Động (People’s Action Party), từ đó ông thành công trong vai trò của nhà lãnh đạo Tân Gia Ba, làm cho đất nước này trở thành giàu đẹp và danh tiếng vang vọng khắp thế giới. Thủ tướng Lý Quang Diệu về hưu năm 1990, sau 31 năm cầm quyền lãnh đạo đất nước, ông còn đó để chứng kiến một tương lai rực rỡ với niềm tự tin tự hào của người hành xử bài học diệt sợ hãi trong cuộc đời của mình.


I. Vấn Đề Sợ Hãi


Tại sao người lại sợ người?  - Vì thiếu tự chủ. Tại sao người sợ khả năng? - Vì thiếu tự tin. Sợ là đối lực của tự tin. Sợ là kẻ thù của thành công. Sợ là chướng ngại của việc giúp dân cứu nước. Sợ làm ta bỏ lỡ cơ hội.


Sợ khiến ta mệt mỏi chán chường. Sợ nhắc ta im lặng khi muốn nói. Sợ ru ta an phận nô lệ nhóm bạo quyền. Sợ làm ta liệt kháng trước bất công. Tất cả các nỗi sợ hãi đều bắt nguồn từ khi chúng ta lo lắng, hốt hoảng mà tưởng tượng ra. Sợ khởi đầu bắt nguồn từ trí óc, sợ lan dần ra chân tay, sợ giết chết niềm tự tin và tự hào dân tộc. Vậy, muốn thành công chúng ta phải diệt sợ hãi để xây dựng niềm tin của chính mình. Và muốn diệt sợ hãi, chúng ta cũng phải truy tầm ra căn nguyên lo sợ và tìm phương pháp trị liệu. Để diệt trừ sợ hãi, xây đắp niềm tin chúng ta cần thực hành hai bước như sau:


- Phân loại sợ, tìm hiểu đích xác xem chúng ta đang sợ cái gì.

- Tìm hành động chữa trị, và hoạt động thích ứng với loại sợ đó.


Khi chạm trán với thử thách, khi đối diện với khó khăn, khi đứng trước những công việc lớn nhỏ mỗi người thường có một phản ứng riêng. Có người nhìn sự việc đó với vẻ ung dung nhàn hạ, họ bước tới trả lời “Tôi làm được!” Có người nhìn công việc với một thoáng do dự suy tư rồi đứng yên bất động. Có người vừa chưa thấy rõ sự kiện thì họ đã hoảng hốt và lo lắng sợ hãi. Như thế, những người ung dung nhàn hạ, niềm tin tỏa rạng ở bất cứ nơi đâu hay bất cứ lúc nào kia, phải chăng họ sinh ra là có sẵn niềm tin?


Không. Chắc chắn là không ai sinh ra mà đã có sẵn niềm tin. Những người ấy, họ đã chinh phục lo âu, xóa tan sợ hãi, thu đạt tự tin mỗi lần một ít, và từ từ mà có nhiều để tới lúc họ tràn đầy tự tin.

Mọi người trong chúng ta cũng có cùng tiến trình phát triển, có khác chăng là ở môi trường thuận lợi hoặc bất lợi. Ví dụ, hai em bé cùng vóc dáng và cùng lứa tuổi được mẹ chở tới trường học. Một em vừa tới lớp là nhập bọn và vui vẻ nô đùa… nhưng em kia thì ôm chặt chân mẹ và sợ hãi khóc thét… mặc cho mẹ vỗ về: “Không sao đâu con, có gì mà sợ?” Và người mẹ cố tách em đứng ra xa chừng nào, thì em lại càng níu áo mẹ ghì chặt vì sợ hãi. Mặc cho mẹ em nhắc nhở rằng đừng sợ, thì em lại càng sợ hãi hơn. Nỗi sợ hãi càng tăng, càng tồn tại và hiện hữu nơi em, trong em.


Vậy có phải vì bẩm sinh mà một em dạn dĩ, và một em nhút nhát không? Chắc chắn là không. Em dạn dĩ thì cũng đã phải trải qua những nỗi sợ hãi như em kia. Giờ này, sở dĩ em có được sự can đảm và tự tin để làm bạn với các bạn cùng trường bởi em đã đi chơi nhiều lần. Những trò chơi gặp mặt, tiếp xúc với chúng bạn đã làm cho em quen thuộc, em không còn sợ nữa.

Để phân loại bệnh sợ hãi, chúng ta có thể xem bộ óc con người như một ngân hàng. Mỗi ngày thu thập dữ kiện từ những điều tai nghe mắt thấy, điển hình: các em bé ốm yếu chìa xương, các cụ già rách rưới lang thang, các thiếu phụ bơ vơ trong nỗi đau mất chồng do chiến tranh gây ra… Các cảnh tượng này càng ngày càng lớn dần trong ngân hàng trí nhớ, rồi khi phải suy nghĩ hoặc phải đối diện với trở ngại, thì ngân hàng trí nhớ sẽ hỏi, “Có gặp trở ngại này chưa?

Tiếp đến ngân hàng trí nhớ sẽ cung cấp những tin tức liên quan đến vấn đề đang gặp phải, rồi đào sâu, phân tích, lượng định, tổng hợp, đúc kết và đề ra biện pháp giải quyết trở ngại… theo chiều hướng tốt, xấu, can đảm, tự tin hay yếu hèn, sợ hãi… cũng do bởi ngân hàng trí nhớ tích lũy mà ra.


Vì thế, chúng ta muốn diệt trừ sợ hãi để xây dựng tự tin, thì cần thực hiện hai điều:


- Thu vào ngân hàng trí nhớ của mình những hình ảnh tốt đẹp, hăng hái, thành công.

- Loại bỏ ngân hàng trí nhớ những hình ảnh xấu xa, ù lì, thất bại.


Hãy tập thành thói quen, mỗi đêm trước khi đi vào giấc ngủ, chúng ta ôn lại trong trí nhớ về những điều tốt việc đẹp mà mình đã thấy, đã làm trong ngày. Và từ đó, chúng ta tìm kiếm ra nguyên nhân giúp mình vui sống và làm việc bằng cách thoải mái; đừng cho những mầm mống bi quan, đen tối có cơ hội tồn tại trong tâm trí của mình.


Vẫn biết sợ hãi phát sinh là do tâm lý, và muốn chữa trị thì ta phải dùng tâm lý mới trị liệu được. Nhưng nhà tâm lý học cũng phải đành bó tay, nếu người nhiễm bịnh không chịu thực hiện một điều mà chỉ có chính người nhiễm bịnh sợ hãi đó mới có khả năng làm được. Đó là diệt trừ tư tưởng bi quan, chán nản, tuyệt vọng.


Hầu hết những con bịnh sợ bắt nguồn từ tư tưởng bi quan, chán nản, tuyệt vọng, và những cuộc thất bại đã thường khởi đầu từ bịnh sợ.


Có nhiều gia đình phải đổ vỡ vì do con bịnh sợ mà ra. Họ sợ nên không dám đối diện với sự thật. Họ sợ nên không dám nói ra những điều mình không vừa ý. Họ sợ nên họ bị rơi xuống vực thẳm của tuyệt vọng.


Và cũng bởi chính bịnh sợ, mà nó đã tạo nên những thiên tình sử đẫm lệ, những khúc bi ai khôn tả. Cũng vì sợ, mà khi ta yêu không dám tỏ tình. Cũng vì sợ, mà để cho người yêu bước lên xe hoa về nhà chồng, thì lúc đó ta âm thầm đau khổ, ôm mối tình sầu và oán trách đất trời sao nỡ gây cảnh éo le, phân ly, bẽ bàng. Tất cả vì sợ mà không dám nói!


Có nhiều người sợ nên đã bỏ lỡ cơ hội tiến thân. Trong nghề nghiệp hoặc ngoài xã hội, có nhiều người sợ rằng mình kém khả năng, không dám đương đầu với vai trò được giao phó. Có nhiều người sợ bạo quyền đến nỗi từ bỏ cả bạn bè thân thiết, không dám đến tiếp xúc, không dám nghe điều hay lẽ phải.


Tôi xin đơn cử một mẫu người diệt sợ hãi để thành công, đó là nhân vật lịch sử Lý Quang Diệu thủ tướng của đất nước Tân Gia Ba. Muốn tìm hiểu ông Diệu xóa tan nỗi sợ như thế nào, chúng ta hãy xem lại một phần đời sống cũng như sinh hoạt chính trị của ông.


Lý Quang Diệu biết mở mắt và nhìn ra thế giới bên ngoài, từ một buổi sáng giông tố của ngày Thứ Hai, Tháng Hai, năm 1942, khi thiết đoàn chiến xa Nhật Bản nghiền nát mộng xâm lăng của thực dân Anh tại bán đảo Tân Gia Ba, một vùng đất vốn sẵn an toàn với bao hứa hẹn, thì nay bỗng dưng con người lâm cảnh đói khát sợ hãi.

Quân phiệt Nhật gieo rắc kinh hoàng vào những tháng ngày cuối cùng của cuộc chiến. Từng đoàn người lũ lượt bị bắt tải lên xe với bao kinh hoàng trên nét mặt. Trong nhóm những người bị bắt và kinh hãi ấy, có chàng thanh niên Lý Quang Diệu, chàng nghĩ rằng nếu mình lại khuất phục quân xâm lược, thì chàng sẽ chẳng còn có cơ hội trở về… Đang lúc căng thẳng, lo âu, bối rối thì chàng họ Lý quyết định trốn trại… và những người bị bắt hôm ấy đã bị quân Nhật tàn sát ngay sau đó.


Lý Quang Diệu đã thoát chết, từ đó ông đã không quên bao nỗi kinh hoàng khiếp sợ của những người đồng hương với ông, trước họng súng bạo nghịch, phản văn minh, xử dụng luật rừng mà chém giết của đám quân phiệt Nhật.


Sau chiến tranh, Lý Quang Diệu vào học đại học Cambridge ở Anh Quốc, tốt nghiệp và trở về Tân Gia Ba vào năm 1950, từ một thành viên bình thường của Đảng Quốc Gia (Nationalist Party), ông đã diệt sợ hãi, đã nhiệt tình và hăng say hoạt động để tự tạo cho mình thành người lãnh đạo tên tuổi.


Lý Quang Diệu tự tin vào khả năng biện luận của mình, nên ông đã đứng ra tố cáo chế độ theo chủ nghĩa xã hội (socialism) và chủ nghĩa thực dân (colonialism) đã làm cho nước ông nghèo nàn, tụt hậu và chậm tiến.


Sau 9 năm tranh đấu cho độc lập của xứ sở, năm 1959 Lý Quang Diệu chiếm chức thủ tướng, và thành lập ra Đảng Nhân Dân Hành Động (People’s Action Party). Từ đó ông đã thành công trong vai trò của một nhà lãnh đạo Tân Gia Ba, làm cho nước này trở thành giàu đẹp và tiếng tăm vang dội khu vực Châu Á rồi lan ra khắp thế giới.


Thủ tướng Lý Quang Diệu về hưu năm 1990, sau 31 năm cầm quyền lãnh đạo đất nước. Ông còn đó để chứng kiến tương lai rực rỡ của Tân Gia Ba với niềm tự hào và hãnh diện, mà ông đã hành xử bài học diệt sợ hãi trong cuộc đời của ông.


* * * *


Tại sao người lại phải sợ người? Có phải vì ta mắc cở, thiếu tự tin, thiếu tự chủ khi trước đám đông?

Ta cũng không thể từ chối những hiện tượng sợ người xảy ra nhan nhản trước mắt. Muốn chinh phục, muốn điều trị căn bệnh này, thiết tưởng có cách là người ấy đặt mình vào trường hợp như câu chuyện người cháu trai dưới đây:


Cháu cũng Diệt Sợ Hãi. Nhớ lại ngày mới đi nghĩa vụ, cháu rất nhút nhát và mắc cở. Cháu sợ người, sợ hết mọi người, sợ cán bộ cấp trên, vì cháu sinh ra trong nghịch cảnh thất trận của cha bác. Bởi thế sau năm 1975 cháu không được phép theo học như lớp bạn cùng tuổi, con cháu cán bộ. Và cái học của cháu, cháu được bố cháu cho chuyển sang học nghề, nhưng lớp thợ tiện của cháu lại chỉ học chính trị, học về chủ nghĩa Mác-Lê, hay học tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhìn vào thế giới bao quanh, cháu cảm nhận cháu vô cùng nhục nhã, cháu thua thiệt mọi người. Cháu thấy ai cũng thông minh, ai cũng giỏi hơn cháu về mọi mặt. Cháu sợ người, cháu sinh ra trong thất bại!


Một hôm cơ duyên may đến với cháu, giúp cháu giảm bớt nỗi sợ. Cháu được chuyển về làm một cấp nhỏ trong Viện Quân Y 121, nơi đây cháu gặp gỡ tiếp xúc với nhiều người: người cấp cao, người cấp thấp, người hàm to hàm bé đủ loại. Nguồn gốc nghề nghiệp cũng khác biệt, người sinh viên, người làm nông, người buôn bán… Cháu thấy họ ai cũng giống nhau. Ai mà chẳng thích ăn ngon mặc đẹp, ai mà chẳng muốn học hành, ai mà chẳng nhớ vợ nhớ con. Nhìn chung, họ cũng giống cháu, chẳng có điểm nào khác lạ làm cháu phải sợ họ. Nếu thất học thì cháu tự học, cháu mất dần cảm giác sợ người, lúc đó cháu mới nhớ ra lời bác hai khuyên cháu, “Tự học, tự thắng để chỉ huy, cháu ạ!” Cháu cảm nghiệm câu chuyện Diệt Sợ Hãi này mà bố cháu thường kể về ngày bác hai và gia đình xuống tam bản vượt biên năm xưa.


Bởi đó, cháu khám phá ra, truy cứu ra nguồn gốc của căn bệnh sợ người, cháu sợ vì thiếu văn hóa trường lớp. Và diệt sợ hãi, cháu tự học, học lớp bổ túc, học được chút nào hay chút ấy. Cháu học thuộc lòng và luôn suy nghĩ về những ý tưởng trong bài viết của bác hai. Sau ngày phục viên, cháu về làm việc ở xã nhà, cháu muốn có cơ hội phục vụ cho bà con họ hàng nhà mình, và được bầu làm chủ tịch xã như hôm nay.


Tương tự diệt sợ hãi của người cháu, để chữa trị ta cần khởi đầu với hai nguyên tắc căn bản là (1) tự đặt mình vào hoàn cảnh, vào cùng vị trí ngang hàng với người tiếp xúc. Khi tiếp xúc, ta nghĩ họ (người tiếp xúc) là quan trọng, thì ta cũng là người quan trọng. Ta và họ là hai con người, hai nhân vật quan trọng gặp nhau để bàn bạc, thảo luận những gì mà hai bên cùng có lợi, hữu ích. (2) phát huy phong cách hiểu biết đúng đắn của mình. Trong thảo luận ta cần biểu lộ một thái độ biết lắng nghe, thành thật lắng nghe những ý kiến đúng. Tuyệt đối tránh ý tưởng rằng người ta đang là kẻ đối diện mình, họ không biết gì.


Ngoài bệnh sợ người, ta còn nỗi sợ hãi tiềm ẩn từ trong tâm khảm, từ trong trạng huống bất an như trường hợp của người cháu. Từ tinh thần bất hạnh trong cuộc sống, suy nhược bởi thời thế, thất bại nơi trường ốc, thua thiệt ngoài trường đời… làm gia tăng bệnh sợ hãi. Những nỗi sợ hãi ấy đã hình thành do tâm lý, phương pháp chữa trị cũng cần có một nhà tâm lý học như trong câu chuyện xảy ra sau đây:


Có người mẹ trẻ 30 tuổi với hai đứa con, bà đang rơi vào tình trạng tuyệt vọng. Bà nhìn lại cuộc sống đã qua, chỉ thấy những điều đau khổ và bất hạnh. Những năm tháng cắp sách đi học, những tháng năm lo gánh vác giang sơn nhà chồng… rồi nhu cầu các con với những tháng năm ở nơi mà bà cư ngụ, thì bà chẳng thấy niềm vui mà chỉ tràn ngập bóng tối, khiếm khuyết hạnh phúc. Những sự kiện buồn nản đã in sâu vào trong ký ức của bà, nhà tâm lý học không thể xóa hết những hình ảnh đau khổ trong thâm tâm của bà ngay cùng một lúc. Ông phân ra từng phần nhỏ, do kinh nghiệm của ông, để chữa trị cho bệnh nhân này. Ông chứng minh cho bà thấy cơ hội chuyển mình vươn lên thay vì ngồi than thở, ngắm nhìn bóng tối tuyệt vọng. Ông yêu cầu bà mỗi ngày viết xuống giấy ba việc làm cho bà vui, và đến ngày hẹn, ông đọc lại hết những điều bà vừa ý. Ông giữ phương pháp chữa trị đó liên tiếp ba tháng thì có kết qủa. Bà đã loại bỏ tư tưởng bi quan trong trí óc và bà đã thấy được niềm vui, từ đó bà ngẩng cao đầu đi tới với nếp sống có niềm tin mãnh liệt.


Xem xét câu chuyện trên, ta thấy nhà tâm lý học đã giúp bà mẹ trẻ kia xóa tan sợ hãi, làm lại cuộc đời bằng cách thay thế dần những hình ảnh bi quan, đen tối, tuyệt vọng bằng những hình ảnh lạc quan, tươi sáng, tràn đầy hy vọng và ông đã thành công.


Ở đời có một nỗi sợ đã giết dần giết mòn niềm tự tin, đó là việc làm sai trái. Và làm sao mà ta phân định được việc làm nào đúng, việc làm nào sai? Khách quan mà xét, thì không ai có thể khẳng định được việc làm đúng hoặc sai, trừ khi đương sự có tham dự, có nhìn nhận, có tự xét việc làm đó khi hoàn tất.


- Một gia đình đang sống hạnh phúc, bỗng dưng một trong hai người vợ hoặc chồng đã tạo cuộc tình bí mật với người khác. Mặc dù hành động phản bội chưa ai biết, nhưng người gây ra trong một lúc nào đó cũng ân hận và cảm thấy mình có lỗi, khiến cho họ thường hốt hoảng, mất dần mất mòn niềm tự tin.


- Vì tham vọng cá nhân bất chính, có người dùng thủ đoạn gian manh, tàn ác mà ám hại người ngay thẳng liêm chính. Cho tới khi đạt được mục đích thì lương tâm của họ lại bị cắn rứt, khiến cho họ tinh thần căng thẳng và giảm dần niềm tự tin.


- Trong thương trường có người dùng mưu kế mà lường gạt kẻ khác, rồi dần dà không còn ai tin nữa. Từ đó họ trở thành kẻ cô đơn và mất tự tin.


Bởi thế trong việc xây dựng niềm tự tin cho thanh niên Việt ngày nay là, “Suy nghĩ đúng, hành động đúng giúp ta thêm tự tin.” Ngoài việc diệt trừ sợ hãi chúng ta cần phải hành xử đúng đắn, vì chính việc hành xử đúng đắn mới gíup cho tâm của chúng ta bình, trí của chúng ta được thảnh thơi. Ngược lại, người làm sai thường bị lương tâm cắn rứt, và họ tự giết chết niềm tự tin, hơn thế nữa, kẻ gian dối lường gạt, sớm muộn thì người ta cũng sẽ phát giác, và không còn ai tin tưởng người ấy nữa.


Những nguyên tắc xây niềm tự tin:


- Ngồi phía trước

Trong các cuộc hội họp, lớp học, cơ quan, hãng xưởng, nhà thờ, chùa chiền… muốn tạo được sự tự tin người thanh niên Việt chúng ta nên hiên ngang bước vào những hàng ghế đầu, bởi vì những người ngồi ở hàng ghế sau thường là những người sợ diễn giả hay chủ tọa chú ý, thấy mặt. Họ thiếu tự tin.


- Nhìn thẳng

“Mắt là cửa sổ tâm hồn.” Khi chúng ta nhìn thẳng vào con mắt của người đối diện, ánh mắt của chúng ta sẽ cho họ biết con người của chúng ta, và ngược lại. Nếu chúng ta không dám nhìn thẳng, tức là chúng ta vẫn còn cảm thấy mình nhỏ bé, thua kém và sợ người. Nhìn thẳng là tự tin, là chúng ta chinh phục được sợ người.


- Bước nhanh hơn bình thường

Tôi về Việt Nam thấy mọi người đều chậm chạp, và chúng ta cần sửa lại. Bước nhanh khiến chúng ta cảm nhận rằng mình tự tin, bước nhanh để nói với thế giới bao quanh: “Tôi có việc quan trọng phải làm, tôi có chỗ quan trọng phải tới. Tôi sẽ thành công và tôi bắt đầu ngay từ bây giờ.”

- Tập phát biểu ý kiến

Chúng ta cần tập góp ý, phê bình, đặt câu hỏi trong mỗi cuộc hội họp ở bất cứ nơi đâu. Đừng sợ người khác ganh tị, ghen ghét, hay chê bai… vì nếu họ không đồng ý với lập luận đúng đắn mà chúng ta đề ra, thì cũng còn nhiều người muốn nghe và đồng ý với chúng ta. Phát biểu là điều kiện xây dựng niềm tự tin.


- Cười lớn

Chúng ta cảm thấy như thế nào khi mình cười lớn trong lúc thất bại. Cười lớn giúp chúng ta thêm tự tin, cười lớn phá tan sợ hãi, cuốn trôi bận tâm thất bại, để ta xắn tay áo lên mà làm tiếp, dựng lại cuộc sống an lạc thanh bình hạnh phúc. Cười là liều thuốc tuyệt hảo của tự tin. Ngược lại vẫn có ít người cố gắng cười trong lúc mình gặp sợ hãi hay thất bại.


Bạn hãy cười để thấy sức mạnh nụ cười của bạn.


Tóm lại người thanh niên Việt chúng ta hãy diệt trừ sợ hãi, và xây dựng niềm tin hôm nay để thành công ngày mai trên tiến trình Giúp Dân Cứu Nước.


Phạm Văn Bản

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.