Hôm nay,  

Tờ lịch

22/06/201910:43:00(Xem: 5393)

Hồ Thanh Nhã

 

 

                          Tờ lịch

 

Em gởi cho anh tờ lịch năm nay

Nhắc lại ngày nầy năm ngoái

Chuyến xe đêm về phố núi mù sương

Trời trở lạnh trên đỉnh đèo bỏ lại

Đường Hai Mươi trăng trải sáng ven rừng

Xa thật rồi thành phố sau lưng

Về đất núi … nơi bình yên chim hót

Đây Lang Biang

Đỉnh trời cao chót vót

Người Tây ba lô thong thả bước du hành

Anh đưa em về đỉnh núi màu xanh

Cùng dạo bước

Thênh thang trong vùng mây trắng

Mây trắng trong thơ ngày xưa xa vắng

Còn dư âm một thoáng tiếng bên trời

Đà Lạt đây rồi !

Phố nhỏ xa xôi

Đất núi Cao nguyên hoàng triều cương thổ

Tiếng thác đổ

Lưng chừng trời còn đó

Lưng chừng trời con suối chảy quanh quanh

Nhịp cầu treo chênh vênh

Cây đỏ lá trên cành

Anh hỏi em ngày nầy thứ mấy ?

Chút nắng nhẹ vờn trên bờ tóc rối

Thứ mấy ngày nầy hoa nở trắng công viên  ?

Bờ khe nhỏ bên triền

Con chim hót bình yên

Lòng thấy nhẹ như mây trời phiêu bạt

Tháng Giêng cỏ non đồi xa bát ngát

Xanh mượt mà bên sườn núi xanh lơ

Tìm gì trong hẻm núi

Thấy gì trong hoang sơ ?

Hàng thông còn đứng bên bờ quạnh hiu

 

                               *

Đưa em thăm đất hoàng triều

Ngậm ngùi thay cho cuộc đời hưng phế

Nước chảy hoa trôi một thời dâu bể

Dinh thự im lìm mờ nhạt bóng hoàng hôn

Ta nhìn nhau lòng bỗng tự nhiên buồn

Cành lan tím…đong đưa theo đợt gió

Đàn ngựa gặm cỏ non

Bên hồ Than thở

Mây ngàn năm còn bay trắng lưng trời

Thật bình yên

Đàn vịt nước đang bơi

Hồ gợn sóng theo từng cơn gió nhẹ

Anh chợt nhớ như ngày xưa còn bé

Ngủ yên lành

Qua nhịp võng ầu ơ

Tiếng mẹ ru từ một thuở xa mờ

Nhẹ…rất nhẹ đưa con vào giấc mộng

Cám ơn em

Cho năm dài tháng rộng

Biết bao giờ

Trở lại rừng núi hôm nay ?

Những bước chân đi

Từ năm trước ngày nầy

Dấu giày cũ như in trên tờ lịch mới

Nhận tờ lịch năm nay

Lòng vui như mở hội

Năm ngoái ngày nầy vào đêm thứ bảy

Đà Lạt cuối tuần đón khách miền xa

Người hồi hương

Thấy lòng mình trẻ lại

Chào mùa Xuân mai nở rực sân nhà

Tờ lịch năm nay

Vào ngày thứ ba

Tháng Giêng rét đậm xám làn da

Thấy chưa…hơi nước hòa hơi thở ?

Càng lạnh càng thêm nỗi nhớ nhà

 

 

      Nét quyến rũ của thành phố Đà Lạt mộng mơ.

 

Trong không khí miền cao se lạnh, cao nguyên Lang Biang huyền thoại thích hợp cho những hoạt động du lich dả ngoại tham quan ngắm cảnh, cắm trại qua đêm, đi bộ qua những con đường nhựa nhỏ xuyên qua các cánh rừng thông kỳ vĩ.  Từ trên đỉnh núi, xa xa có thể thấy Suối vàng, Suối bạc và toàn cảnh Đà Lạt trên cao với màn sương giăng bao phủ níu chân du khách, không nở rời thành phố mộng mơ.

Với rừng thông bạt ngàn, nhiều hồ nước sông suối, Đà Lạt sở hữu một loại khí hậu tuyệt vời. Buổi sáng sớm là thời tiết mùa Xuân, buổi trưa mùa Hạ, buổi chiều mùa Thu và đêm là mùa Đông.  Do đó du lịch Đà Lạt thì lúc nào cũng mát dịu, nên thơ.  Hoa được trồng khắp nơi ờ thành phố mộng mơ nầy. Hoa nở trên dọc theo hai bên đường từ sân bay Liên Khương về trung tâm thành phố.  Hoa mọc đầy theo các sườn đồi, các con đường dốc dẫn đến những khu vực ngoại ô, làng xã ven thành phố.  Thiên nhiên ưu đãi Đà Lạt với khí hậu ôn hòa, thiên đường của nhiều loài hoa.  Người Đà Lạt từ lâu vẫn giữ thói quen đẹp là người người trồng hoa, nhà nhà trồng hoa.  Bước ra khỏi cửa khách sạn là thấy hoa ở khắp nơi, trong ngõ, ngoài phố.  Tất cả những hình ảnh đó đã tạo nhiều ấn tương tốt trong lòng du khách, đã tới nơi rồi thì không nỡ rời thành phố sương mù nầy.  Sau đây xin mời quí vị độc giả đọc tiếp một bài thơ khác của tác giả :

 

 

                              Hồng hạc

 

Hồng hạc bay về núi

Sương lam kín bóng chiều

Em về chi quá vội ?

Quên cái nhìn gởi theo

 

Hạt sương đầu ngọn cỏ

Ngại ngùng cơn gió qua

Tiếng hạc rền trong gió

Bàng bạc bóng chiều xa

 

Một lần tìm về nhà

Vườn xưa giờ thấy lạ

Giọt mưa còn trên lá

Cuộc tình đã bay xa

 

Em là chim hồng hạc

Nghỉ cánh bờ đá xanh

Vụng về chim bay mất

Bên cõi đời mong manh

 

Mai kia về cố quán

Chập chùng mây trắng bay

Đường đời chia mấy đoạn

Lấy gì cho nhau đây ?

 

Hồ Thanh Nhã    

 

 



 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Do đó, chỉ khi nào người dân được quyền trực tiếp chọn Lãnh đạo qua bầu cử tự do, công bằng và dân chủ thì khi ấy những kẻ bất tài, có thành tích xấu, hay chỉ biết thu vét cho đầy túi tham, lợi ích nhóm hay làm tay sai cho Ngoại bang mới bị loại khỏi đội ngũ cầm quyền. Ngược lại, nếu vẫn tiếp tục chọn người theo thông lệ “đảng cử dân bầu” hay “đảng chọn, cán bộ bỏ phiếu” thì có trăm năm, nhân dân Việt Nam vẫn chưa tìm thấy ánh sáng ở cuối đường hầm.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất tự do.
Thây xác trưng ra đó / Còn chưa đủ thối inh? / Mua chi thêm bầy ngựa / Cứt vung cả Ba Đình! - Trần Bang
Tôi sinh ra trong một cái xóm rất nghèo, và (tất nhiên) rất đông trẻ nhỏ. Cùng lứa với tôi, có cả tá nhi đồng mà tên gọi đều bắt đầu bằng chữ út: Út lé, Út lác, Út lồi, Út lùn, Út hô, Út còi, Út ghẻ, Út mập, Út sún, Út sứt, Út méo, Út hô, Út đen, Út ruồi, Út xẹo, Út trọc … Cứ theo cách thấy mặt đặt tên như vậy, người ta có thể nhận dạng và biết được thứ tự của đứa bé trong gia đình mà khỏi phải giới thiệu (lôi thôi) kiểu cách, theo kiểu Âu Tây: – Còn đây là thằng út, nó tên là Út rỗ. Vùa lọt lòng thì cháu rơi ngay vào một cái … thùng đinh! Riêng trường hợp của tôi thì hơi (bị) khác. Tôi tên Út khùng. Lý do: khi mới chập chững biết đi, tôi té giếng. Khi tìm ra con, nắm tóc kéo lên, thấy thằng nhỏ mặt mày tím ngắt, chân tay xụi lơ, bụng chương xình, má tôi chỉ kêu lên được một tiếng “rồi” và lăn ra bất tỉnh.
Chúng ta thấy gì qua những cuộc biểu tình và bạo lực tiếp theo sau cái chết của người thanh niên da đen George Floyd bị người cảnh sát da trắng Derek Chavin dùng đầu gối đè cổ nghẹt thở chiều ngày 25-5-2020 tại thành phố Minneapolis, bang Minnesota? Hàng trăm cánh sát dã chiến với trang bị tác chiến và măt nạ chống khói độc đối đầu với hàng ngàn người biểu tình đòi công lý cho George Floyd và đòi được sống bình đẳng với người Mỹ da trắng. Đó là cuộc đấu tranh chính đáng chống lại áp bức, chống lại bất công của một xã hội đa chủng đa văn hóa như nước Mỹ.
Có vài kinh điển đã nói đến chiến tranh và dùng bạo lực để trừng phạt, nhưng tìm cách biến đổi quan điểm thông thường của thế gian là bạo lực cũng đôi khi cần thiết bằng cách là đối thoại với một lý tưởng không dùng bạo lực. Về điểm này, Phật có nói đến mình như một người xuất thân từ giai cấp lãnh chuá. Trong hai bài pháp ngắn, Phật có bình luận về hai cuộc chiến xảy ra khi ác vương A Xà Thế, Ajàtasattu, tấn công vào lãnh thỗ của chú mình là vua Ba Tư Nặc, Pasenadi, cũng là một tín đồ của Ngài, và được coi như là người luôn làm việc thiện. Trong cuộc chiến đấu tiên, vua Pasenadi bị đánh bại và rút lui. Đức Phật có suy nghĩ về sự bất hạnh này và ngài nói rằng: “Chiến thắng gieo thêm hận thù, người bại trận sống trong đau khổ. Hạnh phúc thay cho một đời sống an hoà, từ bỏ đưọc mọi chuyện thắng thua. Điều này cho thấy rõ rằng sự chinh phục đem lại bi đát cho người thua cuộc mà chỉ đưa tới thù hận và dường như chỉ muốn chinh phục lại kẻ chinh phục.”
Chiều ngày 29/5 sau phiên xử phúc thẩm, một người dân ở xã Bình Phước, ông Lương Hữu Phước, đã trở lại toà án và nhảy từ lầu hai của toà để tự sát. Hình ảnh ông nằm chết, co quắp ngay trước sân toà nói lên nỗi tuyệt vọng, sự cô đơn cùng cực của người dân VN trước các phán quyết của toà án. Tôi chạnh nhớ đến câu nói của thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh trong phiên phúc thẩm của anh: “một lũ bất nhân đã làm ra phiên toà bất công”.
Ôi, tưởng gì chớ tật xấu của đàn ông (nói chung) và đàn ông Việt Nam (nói riêng) thì e đám đàn bà phải càm ràm cho tới… chết – hay ngược lại. Không mắc mớ gì mà tôi lại xía vô mấy chuyện lằng nhằng (và bà rằn) cỡ đó. Nhưng riêng hai chữ “cái làn” trong câu nói (“Lắm đấng ông chồng vui vẻ xách làn đi chợ…”) của Phạm Thị Hoài thì khiến tôi bần thần, cả buổi! Năm 1954, cái làn (cùng nhiều cái khác: cái bàn là, cái bát, cái cốc, cái ô, cái môi, cái thìa…) đã theo chân mẹ tôi di cư từ Bắc vào Nam. Cuộc chung sống giữa cái bàn là với cái bàn ủi, cái bát với cái chén, cái cốc với cái ly, cái ô với cái dù, cái môi với cái vá, cái thìa với cái muỗm… tuy không toàn hảo nhưng (tương đối) thuận thảo và tốt đẹp.
Hoa phượng được Nhất Tuấn gọi là hoa học trò vì thuở đó hầu như ngôi trường nào cũng trồng cây phượng trong sân trường. Khi phượng đơm hoa báo hiệu cho mùa Hè cũng là thời điểm chia tay sau niên học. Để lưu niệm, nữ sinh đóng tập Lưu Bút giấy pelure xen kẽ các sắc màu, trông thật nhã, ghi cảm nghĩ cho nhau… Ở lớp Đệ Tứ, không còn học chung nhau vì lên lớp Đệ Tam theo ban A, B, C và lớp Đệ Nhất là thời điểm chia tay vĩnh viễn, tập Lưu Bút dày hơn, chia sẻ, tâm tình… của tuổi học trò. Hầu như nam sinh không có Lưu Bút, chỉ được xía phần, dù có tinh nghịch nhưng phải viết đứng đắn, lịch sự.
Trong chị Thanh chỉ có một tấm lòng, chứ tuyệt nhiên không có “những bức tường lòng” phân cách Bắc/Trung/Nam – như rất nhiều người Việt khác. Tình cảm của chị tinh khiết, trong veo, và tươi mát tựa như dòng nước của một con suối nhỏ – róc rách, len lách – khắp mọi miền của tổ quốc thân yêu. Bởi thế, dù không biết chính xác chị được chôn cất nơi nao tôi vẫn tin rằng ở bất cứ đâu thì đất nước này cũng đều hân hoan ấp ủ hình hài của người thơ đa cảm, tài hoa, và chuân truyên nhất của dân tộc. Vĩnh biệt Nguyễn Thị Hoài Thanh. Em mong chị mãi mãi được an nghỉ trong an lành và thanh thản!


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.