Hôm nay,  

Hạt Sen Khô (*)

17/07/201909:52:00(Xem: 4983)

Từ rất sớm, khi mặt trời còn đang ngái ngủ sau rặng tre, lão nhà báo đã chèo chiếc thuyền con ra giữa hồ, hái những đóa sen chớm hé, khẽ khàng đặt lên lòng thuyền; được đâu chừng mươi bông, lão lại ngược mạn thuyền, chèo vào bờ. Neo đậu thuyền xong, lão nhẹ nhàng ôm bó hoa vừa hái đặt vào chiếc bình gốm trên bàn ở căn gác lửng, nơi người phụ nữ còn đang mê man sau một đêm vật vã với cơn đau nhức khắp thân. Nhưng dường như hương sen dìu dịu lan tỏa khắp căn gác nhỏ lại đánh thức người phụ nữ trung niên dậy. Cô kéo nhẹ chiếc áo khoác mỏng mà lão nhà báo để sẵn nơi thành ghế cạnh giường, mặc vào và đi đến bên cửa sổ, từ góc đứng này có thể nhìn thấy những giọt sáng li ti ánh lên từ những giọt sương đọng trên lá ở hồ sen. Bấy giờ, người đàn ông vừa kịp đun nước, pha một ấm trà con, ra ngồi trên chiếc cầu nhỏ bắc ra một phần góc hồ, soạn sẵn hai chiếc tọa cụ, một cho mình và một cho người phụ nữ của đời mình. Người phụ nữ bước từng bước cẩn thận xuống mấy bậc thang rồi đi đến nơi người đàn ông đang ngồi. Họ không nói với nhau một lời, chỉ nhìn nhau cười rồi cùng nhau đón bình minh trong thinh lặng của việc theo dõi hơi thở.

Cách đây chừng 2 năm, trong một lần đi khám sức khỏe định kỳ, bác sĩ chẩn đoán người phụ nữ bị ung thư cổ tử cung. Sau những ngày bàng hoàng vì kết quả, người đàn ông đã đồng hành cùng với vợ mình chiến đấu lại căn bệnh K. Nhưng cuộc đời, vốn dĩ khô khốc, cạn cợt như chính chữ “cuộc” trong một chữ “đời” ấy; người phụ nữ lại phát hiện K còn di căn ở ngực mình. Cô khóc cạn nước mắt. Vợ chồng họ từng trải qua những tháng ngày gian khổ nhất, thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu đủ thứ; đến khi kinh tế chừng khá giả đôi chút, có thể hưởng thụ những sở thích bình thường nhất thì lại phát hiện mình đã mắc bệnh ung thư. Bằng tất cả mối quan hệ mà vợ chồng họ có được, những bác sĩ giỏi nhất họ đã tìm đến, nhưng, thuốc hay chẳng cứu được người tận số, vậy là cô đành chấp nhận và chờ cái chết đến.

Những tháng ngày đợi chờ thần chết gọi quả là không dễ chút nào. Dẫu rằng, ai rồi cũng đến lúc phải chết, nhưng một tờ giấy chỉ định chứng tử một ngày không xa, mông lung, bất định dễ khiến nỗi lo âu, sợ hãi bào mòn sức khỏe và tâm trí. Cho đến một ngày trong sợ hãi tột độ, cô đọc được trong một bài viết của ai đó nói rằng: Mỗi người chúng ta vốn dĩ vẫn chết trong mỗi thời khắc, cứ mỗi giây/phút/giờ/ngày trôi qua, chúng ta đang tiến dần về phía cái chết, chỉ là chúng ta quên mất không nhận ra điều đó; vậy nếu chỉ còn một ngày để sống bạn và tôi sẽ làm gì? Một sự diễn giải về cái chết và câu hỏi gợi mở đã vô tình giải thoát cô ra khỏi sợi dây trói buộc của lo lắng.

Cô bắt đầu dọn về ở trong ngôi nhà ngoại ô thành phố. Chồng cô – một nhà báo có thâm niên và địa vị cũng xin từ chức, kề cận bên cô những tháng ngày hiếm hoi còn lại. Họ cùng nhau bắt đầu quan tâm đến việc nuôi dưỡng hơi thở, quán chiếu những nỗi đau trong thân, cảm nhận sâu sắc nhất sự đến/đi, ra/vào của hơi thở trên cơ thể mình, cái mà bấy lâu nay, hơn năm mươi năm qua họ đã lãng quên.

Bờ hồ buổi sáng khi những giọt sương còn đọng trên lá sen; những con chim trú ngụ nơi rặng tre, cây dừa; loài cá lóc trong ao; con gà cục tác; cây chanh cô tự ươm hạt nảy mầm nay đã quá đầu gối,… tất cả sinh vật hiện hữu đều từng ngày chứng kiến hành trình quay về chú tâm hơi thở của cô. Chứng kiến cả cảnh người chồng dành cho cô sự quan tâm, chăm sóc dịu dàng nhất khi cơn đau ập đến khiến đầu óc cô mụ mị. Người đàn ông lặng lẽ đi cùng người phụ nữ những ngày cuối đời. Giờ đây, lão nhà báo chẳng còn dùng lý lẽ cứng cõi, ngôn từ sắc bén để tả lại những chuyện đời; ông chỉ chuyên chú mỗi việc, dùng hành động viết lại những gì thân thương, gần gũi, ân cần nhất vào tâm thức người phụ nữ đã đồng hành cùng mình hơn nửa đời người.

 

Mùa hạ đi qua, trời chớm thu se lạnh. Những cơn đau thường xuyên hơn khiến người phụ nữ gầy rộc, xanh xao. Hồ sen độ này bắt đầu rụi dần. Không còn hoa sen sớm cắm vào bình, thay vào đó là vài lá sen thật đẹp được đặt trên bàn ấp chứa gương sen. Trên mặt hồ lác đác lá sen đốm vàng, khô nhanh. Những đóa sen nở bung không được hái, sau khi cánh hồng rụng xuống mặt nước, trơ ra gương màu vàng tươi, rồi dần chuyển sang màu xanh nhạt, xanh đậm. Trên mỗi gương sen xanh thẫm, lốm đốm những đầu hạt sen như hạt đậu. Gương sen dần to đến cực điểm, trên đầu gương bắt đầu xám lại đồng điệu mở ra khoảng cách với hạt sen hơi nâu, sự nặng trĩu bởi hạt khiến đầu gương sen cúi xuống. Gương không được hái, khô dần, chẻ những đường nứt từ vòng tròn bao quanh hạt, hạt sen rơi ra, rớt xuống mặt hồ, lặn sâu vào lòng bùn, chờ ngày khai phát một cây sen mới**.

Cây cau sát nhà rụng xuống đôi bẹ, để lại ngọn cau chút trơ trọi trong gió hiu hiu của trời thu. Hôm ấy, đàn quạ ngang nhà, cất tiếng kêu thê lương thảm thiết, tiếng trống dồn dập báo tin người vừa từ bỏ cuộc trần thế mộng. Ngày đưa tang, có rất nhiều người đến tiễn đoạn đường, vì lẽ, người phụ nữ mắc bệnh K ấy cũng từng là nhà báo văn nghệ, mối quan hệ xã hội của cả hai vợ chồng khá nhiều. Người đàn ông ôm di ảnh vợ, thất thểu bước đi, không ai biết ông đang nghĩ gì, sẽ phải mất bao lâu để vượt qua nỗi đau quá lớn này. Dẫu cho bên cạnh ông vẫn còn hai người con và đứa cháu nội mới tròn một tuổi là niềm an ủi lớn cho ông; nhưng làm sao sánh được với người phụ nữ đã đi cùng ông qua những thăng trầm gần nửa thế kỷ, dù vinh hoa hay tủi nhục vẫn chưa từng rời bỏ; và, luôn bao dung, tha thứ cho ông những lỗi lầm lớn bé, đôi khi vụng dại hơn cả đứa trẻ thơ.

Trong trang nhật ký những ngày cuối đời, người phụ nữ viết rằng: Những ngày này, mình nhận ra hơn năm mươi năm qua, mình đã sống không phí hoài. Mình đã trả hiếu cho bố mẹ hai bên, đã lo cho hai con ăn học tới nơi tới chốn, chứng kiến chúng nó đến với người chúng nó yêu và tin tưởng trao gửi thân phận cả đời. Nhưng điều làm mình tiếc nuối nhất có lẽ là mình đã quên đi sự mầu nhiệm của hơi thở. Chỉ đến khi quá đau đớn và tìm một giải pháp trị liệu cho thuyên giảm cơn đau, mình mới tìm về hơi thở và tập quán chiếu một cách tường tận. Nhưng có lẽ, sự tìm kiếm trong vô vọng của cơn đau thể xác, hơi thở như phao nổi cứu mình khi rơi xuống biển, cho mình đi qua những ngày đau đớn nhất một cách bình thản nhất. Để nói một điều gì đó về bản thân, ngẫm lại, tự nhận thấy giờ đây, mình như một hạt sen trong gương sen ngã màu nâu bùn, sắp rơi xuống mặt nước; hạt sen đã được nuôi dưỡng bằng hơi thở của trời đất, và sẽ có một ngày không xa, hạt sen sẽ trở lại với một hình hài khác, để tiếp tục làm tươi đẹp cho người, cho đời.

 

Lời người viết: Bài viết này khởi điểm từ câu chuyện có thật của hai vợ chồng nhà báo ngụ tại một tỉnh miền Trung, Việt Nam. Thiết nghĩ, tựa hồ như một hạt sen khô, đã rũ mình, nứt ra từ gương sen, rơi xuống lòng hồ, tiếp tục chờ ngày tái hiện bằng cách nảy mầm, vươn lên khỏi mặt hồ, trổ hoa sen thơm, làm tươi mát cho đời; mỗi người hãy nuôi dưỡng đời sống bằng ý thức quay về nương tựa hơi thở của chính mình, như hành trình hạt sen tiếp nhận hơi thở của đất trời, diễn tiến theo tuần tự, chấp nhận diễn tiến sinh trong diệt, diệt trong sinh, để nếu còn trong vòng luân chuyển, thì có thể hữu ích cho tự thân và tha nhân.

 

07/7/2019

Thanh Thị

____________________________

 

* Tựa đề bài viết được đặt từ ý tưởng cuốn sách “Mấy hạt sen khô” của Thầy H.T., viết về chút kỷ niệm trong khoảng thời gian làm thị giả ‘Hòa thượng Vạn Đức,’ mà có lẽ sẽ còn rất lâu nữa cuốn sách mới có thể đến tay người đọc vì lý do kinh phí in ấn.

** Diễn ý từ đoạn trao đổi với một “ông thầy núi” có cảm nghiệm thăng trầm trong đời sống, lẫn sự thấu triệt vô thường sinh-diệt qua hình tượng về ‘sen’.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.