Hôm nay,  

Hồn Mao Da Nghệ

19/10/201900:00:00(Xem: 3816)

Trương Ba, tuổi còn trẻ, lại giỏi tài đánh cờ tướng, tiếng tăm bay tới bên Tàu. Lúc bấy giờ, bên Tàu có ông Kỵ Như cũng nổi tiếng là vua cờ, nghe danh Trương Ba, bèn qua Việt nam, tìm tới Trương Ba để thi tài cao thấp.

Trương Ba đưa đối thủ lâm vào thế bí, nên có vẻ tự đắc: nước cờ này, Đế Thích cũng phải chịu thua!

Trên Thiên Đình, Đế Thích nghe được lời kiêu ngạo của Trương Ba, tức giận, bèn hạ giới. Ông giúp Kỳ Như gỡ thế bí, chuyển bại thành thắng.

Trương Ba biết người giúp Kỳ Như chắc phải là Đế Thích nên sụp lạy tạ tội xúc phạm bực tiên thánh. Đế Thích bỏ qua và còn cho một thẻ nhang với lời dạy: khi cần ta, hãy đốt lên một cây nhang.

Thời gian sau, Trương Ba bổng ngã ra chết. Ma chay xong, một hôm, chị vợ dọn dẹp nhà cửa, bắt gặp thẻ nhang, bèn lấy ra một cây, đốt lên, đem cắm vào bàn thờ chồng.

Trên Thiên đình, bắt được mùi hương, Đế Thích liền hạ giới. Biết Trương Ba đã chết cả tháng rồi, Ngài tạm dùng xác anh hàng thịt vừa mới chết, gọi Nam Tàu, để sửa sai, hãy trả hồn Trương Ba vào xác anh hàng thịt để cứu người bạn cờ.

Hồn vừa nhập vào xác, anh hàng thịt vụt ngồi dậy, sống lại. Nhưng con người trong anh hàng thịt, giờ đây, là Trương Ba. Sự xung đột mãnh liệt giữa hồn, tức con người nho nhả với cái thân xác kịch cởm, thô bỉ bắt đầu nhưng không có kết thúc nào khác hơn là hồn dần dần bị biến chất theo áp lực thân xác.

Chuyện dân gian được nhà viết kịch Luu Quang Vũ dựng thành kịch nói năm 1981 và năm 1984, đem trình diễn nhiều nơi rất thành công.

“Hồn Mao da Nghệ” là phỏng theo “Hồn Trương Ba da hàng thịt” để nói về một con người thật, tim óc là Mao Trạch-đông, tức cộng sản đặc sệt tuy da, nhơn diện sắc tộc là người xứ Nghệ An.

 

Hồ Chí Minh là đệ tử chơn truyền của Lê nin?

Ngày nay, đang có hiện tượng bênh vực Hồ Chí Minh đi theo cộng sản vì chỉ có Đệ Tam Quốc tế mới chống lại Đế quốc Thực dân.Trước đây có nhiều tổ chức, nhiều phong trào, cũng bôn ba tìm đường cúu nước, nhưng đều thất bại. Mà Hồ Chí Minh đi theo cộng sản là theo Lénine, không theo Staline vì cho rằng Staline là cộng sản cực tả. Cũng như Mao và mao-ít là cực tả (Trần Đĩnh gọi là mao-nhiều). Cánh cực tả ác ôn trong cai trị. Nên ngày nay, Hà nội vẫn kiên quyết đi theo mác-lê và thêm tư tưởng hồ chí minh cho hùng hậu. Là đúng và sáng suốt.

Vậy Lê-nin có gì mà Hồ chí Minh học được?

Tháng Mười 2017, Lê nin cướp được chánh quyền bằng một cuộc đảo chánh – đúng ra chỉ một cuộc binh biến nhỏ. Lập tức, Lê nin dựng lên mô hình cai trị bằng bạo lực. Ông tuyên bố làm chiến tranh thường trực

Học Mác, ông lý thuyết hóa nội chiến làm thành phương tiện cướp chánh quyền. Và giữ chánh quyền. Đó là bài học cách mạng mà cộng sản khắp thế giới không ở đâu không học theo.

Lý thuyết khủng bố hàng loạt của Lê - nin có 2 ý nghĩa: khủng bố do quần chúng làm theo sự xách động của cán bộ cộng sản và khủng bố là tư tưởng trung tân của Lê nin. Khái niệm này được Lê nin đưa ra rất sớm. Vì theo Lê nin, khủng bố là động cơ lịch sử, hoàn toàn do đấu tranh giai cấp thực hiện. Nó làm nổi bậc tương quan lực lượng. Nó là sự thật chánh trị. Vai trò của bạo lực là thanh toán xã họi củ.

Trong chánh trị, Lê-nin đã từng dạy “Thi hành bạo lực triệt để thì chế độ ta không bao giờ bị cướp mất”.

Cái ác ôn của Staline là do học được ở Lê-nin. Có người hỏi Ngoại Trưởng Molotov: Lê-nin và Staline, ai ác hơn ai? Ông trả lời không ngần ngại: Lê-nin là bậc đại gian đại ác, là đại sư phụ của Staline.

Theo Victor Sebestyen, sử gia Anh, trong quyển (“Lenin - The Dictator; An Intimate Portrait” của ông, xuất bản ở Anh), để đạt mục đích, Lê-nin "nói dối trắng trợn" và sẵn sàng bỏ qua lời hứa, cũng vì "mục tiêu Cách mạng".

Victor Sebestyen cho rằng sự tàn bạo của chế độ Liên Xô bắt đầu từ chính Lê-nin chứ không phải từ Staline.

Điểm mấu chốt là từ chỗ lãnh đạo nhóm Bolshevik giành được chánh quyền năm 1917, Lê-nin đã giữ được chánh quyền qua cuộc Nội chiến Nga và tạo ra nhà nước cộng sản đầu tiên bằng bạo lực. Staline chỉ là người kế tục chánh sách bạo lực do Lê-nin dựng lên lúc ông cầm quyền.

Dù lấy cảm hứng từ lý tưởng cộng sản của Karl Marx và tư tưởng xã hội của Friederic Engels, chủ nghĩa do Lê-nin tạo ra cả về lý luận và trên thực tiễn được cho là "nhà nước toàn trị hiện đại đầu tiên" (sau quân chủ với bạo chúa). Những người Bolshevik (cộng sản) đã đem chủ nghĩa xã hội vào thực tế và áp dụng các biện pháp chuyên chế, độc đoán nhằm bẻ gãy sự phản kháng của người dân. Vì thế, mọi mặt của cuộc sống kinh tế, xã hội, văn hóa, trí tuệ và sinh hoạt chính trị tại Liên Xô đều bị Đảng Cộng sản kiểm soát triệt để và mang tính trại lính, không chấp nhận bất cứ phê phán hay dấu hiệu đối lập nào.

Xã hội xã hội chủ nghĩa được xây dựng bằng quyền lực độc đoán của quan chức Đảng Cộng sản và bộ máy quan liêu. Khủng bố được áp dụng không khoan nhượng và các suy nghĩ nhân đạo hoặc tư tưởng cá nhân đều bị gạt đi.

Lớp trí thức củ và cả sinh hoạt đạo đức bị cải tạo. Sự thật, Luân lý, Công lý. Sự tử tế, …dần dần không còn là những gíá trị được xã hội qui chiếu nữa.

Tình trạng xã hội ở Việt nam ngày nay phản ánh rất trung thực xã hội nga dưới thời Lê–nin cai trị.

 

Hồ Chí Minh làm cách mạng dân tộc hay cách mạng cộng sản?

Tại Đại hội II ,Hồ Chí Minh đọc báo cáo do Trường Chinh soạn “Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội”. Và cũng từ đây, đảng cộng sản chánh thức đổi ra thành “Đảng Lao Động”. Đảng vẫn khẳng định “đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn và chuẩn bị những tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi kháng chiến thành công”. Ngoài ra, đảng còn xây dựng ở mỗi nước Đông Dương một đảng cộng sản riêng. Và sau này, Trung Ương Cục Miền Nam đặc trách luôn cộng sản ở Miên.

Hồ Chí Minh xác định làm cách mạng ở Việt Nam là đánh đuổi xâm lược, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, thống nhứt, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhơn dân, gây cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Con đường tiến đến chủ nghĩa xã hội trải qua một thời gian dài gồm 3 giai đoạn, kế tục nhau và quan hệ mật thiết: kháng chiến tiêu diệt đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, củng cố Nhà nước Dân chủ nhơn dân, cải cách ruộng đất triệt để, phát triển nông nghiệp, công nghiệp dưới hình thức hợp tác hóa, kỹ nghệ hóa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật chất -kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

Cương lĩnh đảng Lao Động xác định mục đích, tôn chỉ, nhiệm vụ lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhơn dân đến thắng lợi và nhiệm vụ xây dựng đảng là đảng của giai cấp công nhơn và nhơn dân Lao Động, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lê nin theo nguyên tắc tập trung dân chủ, sau cùng là chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản.

Trường Chinh từng chỉ dạy đảng viên “Chiến tranh giải phóng Việt Nam là một bộ phận của chiến lược giải phóng toàn thế giới theo cộng sản”.

Như vậy, Hồ Chí Minh tuyên bố cách mạng giành độc lập là chỉ để vận động quần chúng đánh giặc giúp cách mạng thành công cho mục tiêu cộng sản.

 

Còn tư tưởng Hồ Chí Minh?

Hà Nội từ năm 1991, Đại hội VII (6/1991), đưa ra cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” là một cách bắt chước rập khuôn theo Tàu. Ở đây, họ đề cao tư tưởng Mao Trạch Đông. Thực chất là theo Tàu, nhưng khi nói tư tưởng Hồ chí Minh, ý của Hà Nội muốn tréc lên một chút son phấn “bản sắc dân tộc” sau khi khối cộng sản Liên Xô và đông Âu sụp đổ.

Khi nói “tư tưởng Hồ Chí Minh”, đảng cộng sản gán cho ông cái “tư tưởng” giả tạo vì chính ông đã từng nói “Tôi không có tư tưởng gì ngoài tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê cả”. Vì đã lỡ nghe nói tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thử tìm hiểu coi đó là gì?

Về mặt chánh trị, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự đề cao Mao và Staline của ông ở Đại hội II, lúc thành lập đảng Lao Động. Quan điểm của Staline mà Hồ chí Minh vô cùng tâm đắc là “Đảng cộng sản là công cụ của chuyên chính vô sản” và “chuyên chính vô sản, về thực chất, được thay thế bởi chuỳên chính của đảng cộng sản”. Hơn nữa, trong thực tế, chuyên chính của đảng cộng sản là chuyên chính của một người, tức của Tổng Bí thư đảng. Boris Souvarine từng khen ngợi Hồ Chí Minh là đệ tử tuyệt trần của Staline.

Còn Mao ảnh hưởng Hồ Chí Minh, thì tưởng không có gì rõ hơn là ý mà Hồ Chí Minh phát biểu tại Đại hội II “Cách mạng Việt Nam phải học nhiều của cách mạng Trung Quốc, Kinh nghiệm và tư tưởng Mao Trạch- đông đã giúp chúng tôi hiểu thấu hơn học thuyết mác-anghen-lênin-stalin. Những người cách mạng Việt Nam phải luôn luôn ghi nhớ và biết ơn Mao Trạch Đông về sự cống hiến to lớn đó”.

Và cũng tại Đại hội II này, Hồ Chí Minh tuyên bố “Ai đó thì có thể sai, chớ đồng chí Staline và đồng chí Mao trạch-đông thì không thể nào sai đưọc”. Có thể còn sự sùng bái nào hơn dược chăng? Và ngày nay, Tàu lấy trọn nước Việt nam thì cũng đúng thôi!

Nói rỏ hơn, theo Phạm Văn Đồng, tư tưởng Hồ Chí Minh gồm có 5 yếu tố chủ yếu: chủ nghĩa Mác-Lê, sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng cộng sản, chuyên chính vô sản, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và tinh thần quốc tế vô sản.

Ngoài ra, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định “chủ nghĩa Mác-Lê là học thuyết đúng đắn nhứt, cách mạng nhứt, là kim chỉ nam cho hành động” của người cách mạng.

Người cộng sản vẫn khẳng định rằng “tư tưởng Hồ Chí Minh là một sự vận dụng nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác-Lê vào điều kiện cụ thể của nước ta”, nhưng trong thực tế, từ xưa nay, họ chỉ biết áp dụng rập khuôn, một cách máy móc kinh nghiệm của Liên-Xô và Trung Quốc mà không quan tâm tới hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam nên gây ra hậu quả vô cùng thảm hại như cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, cải tạo tư sản, chánh sách kinh tế mới,…

Ngoài ra, khi ở Nga, Staline thanh trừng Trostky, ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng nhiệt tình hưởng ứng, đi lùng tiêu diệt nhóm Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Hồ Văn Ngà, Trần Văn Thạch,… mà Hồ Chí Minh gọi “đàn chó trốt-kít, bọn phản động, gián điệp, tay sai đế quốc, những kẻ đầu trâu mặt ngựa, những kẻ thù của nền dân chủ và tiến bộ,… ”

Về mặt kinh tế, Hồ Chí Minh cũng chủ trương tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, tức xóa bỏ các hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tề gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhứt, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Và Hồ Chí Minh còn nói thêm “Kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu của toàn dân, nó lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, Nhà nước phải bảo đảm cho nó phát triển ưu tiên, tạo nền tảng vững chắc cho chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy cải tạo xã hội chủ nghĩa”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn là chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng Mao Trạch Đông mà ông học được. Ở Hồ Chí Minh không có bản sắc dân tộc. Trên báo Thanh Niên phát hành tại Quảng Châu, số 22/12/1926, Hồ Chí Minh nói rõ quan điểm của ông về Dân tộc, Tổ quốc “Cái danh từ Tổ quốc là do các chánh trị gia đặt ra để đè đầu nhơn dân, để buộc những người vô sản phải cầm vũ khí bảo vệ tài sản của địa chủ và quyền lợi của giai cấp tư sản. Thực ra, chẳng có Tổ quốc, cũng chẳng có biên giới… ”.

Hồ Chí Minh từ lúc chọn theo Quốc Tế Đệ Tam cho tới ngày chết, trước sau, tự tu luyện để trở thành người cộng sản tinh ròng. Những biểu hiện độc lập dân tộc chỉ là thứ «vạn biến» để phục vụ cho cái bất biến là cộng sản. Trong di chúc, Hồ chúc cho vô sản thế giới thắng lợi để thế giới trở thành cộng sản. Và khi chết, Hồ sẽ hạnh phúc đi gặp cụ Mác, cụ Lê chớ không phải đi gặp Cụ Sắc, Bà Loan hay Anh Đạt, Chị Thanh.

Cău truyện dân gian «Hồn Trương Ba da hàng thịt» thể hiện rất chính xác vào Hồ, đội lốt người Nghệ An, tức người Việt nam, nhưng tim óc hoàn toàn là Mao, là Staline.

 

Nguyễn thị Cỏ May

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.