Hôm nay,  

Sông Có Khúc, Người Có Lúc

10/09/202016:09:00(Xem: 3379)

Nhiều người hỏi tôi: trong các nghề: dạy học, làm báo, làm thương mại, bà thích nghề nào nhất?

  Tôi trả lời ngay không một chút do dự:

- Dạy học và làm báo.

  - Tại sao?

- Học trò rất dễ thương, những con mắt ngơ ngác như con nai vàng không biết nói dối, nói láo. Cười là cười thật, khóc là khóc thật. Khi còn là sinh viên, tôi đi kèm trẻ em tại nhà. Tôi dạy các em rất nhỏ. Buổi chiều vào nhà tôi học, buổi tối ở lại nhà ba má tôi. Sau này lớn lên, đến Sài Gòn học, tôi dạy cho các con của chị Mỹ Linh, vô địch bóng bàn Á Châu. Tôi dạy các em ở một phòng nhỏ, bên ngoài là trung tâm bóng bàn, thiên hạ đến chơi bóng bàn hàng ngày. Các em rất dễ thương, khỏe mạnh, năng động. Lúc nào dạy cho các em xong, các em đặt nhiều câu hỏi hóc búa, như:                                                         

- Cô giáo là tuyển thủ bóng bàn, sao không là học trò của má em?

- Vì cô là học trò của bác Lê Văn Tám, thân phụ của vô địch bóng bàn Lê Văn Tiết, mà báo chí Pháp nói miệng còn hôi sữa. Lúc đó, Lê Văn Tiết 17 tuổi, đã chiếm giải thưởng vô địch bóng bàn Âu Châu. Một người đâu thể là học trò của 2 trung tâm bóng bàn?

Học trò của tôi dễ thương lắm. Những đứa trẻ năng động không thể nào mập mạp, chậm chạp, vì chúng chạy nhảy suốt ngày, làm việc hoài thì không thể mập. Tôi thích những đứa trẻ thông minh. Nhiều cha mẹ thấy con của mình nghịch ngợm, thì hay than, tôi thấy chúng nó có khỏe thì mới nghịch, các cháu nghịch thì mừng chứ sao lại than. Nếu không nghịch thì bệnh phải đi bác sĩ, vậy thì con của mình nghịch, mình phải mừng chứ, thay vì phải đưa con đi bác sĩ thì khổ lắm?

Dạy học vui lắm, những đứa trẻ thông minh, nghịch ngợm. Tôi kèm trẻ em, tôi thích trẻ thơ, trẻ thơ vô tư nghịch ngợm. Trẻ em là tuổi thơ của tôi. Ngày nhỏ, tôi cũng nghịch như học trò của tôi, cho nên tôi thương học trò nghịch ngợm của tôi. Học trò của tôi nhiều lắm. Tôi kèm trẻ ở nhà tôi, ở nhà ba má tôi. Tôi dạy học rồi ở trường công, trường tư. 

Tuổi trẻ của tôi gắn liền với học trò. Và sau này, tôi làm phóng viên chiến trường, thì tôi lại gắn liền với chiến trường, với những chiến sĩ hào hùng của quân lực Việt Nam Cộng Hòa suốt 4 vùng chiến thuật. Tôi cũng ảnh hưởng nhiều đến tôn giáo. Tôi có niềm tin tôn giáo tuyệt đối, nên lúc nào cũng lạc quan, sống an nhiên, sống thong dong với mọi biến cố, với số phận khắc nghiệt của đất nước.

  Với chiến tranh ngoài chiến trường, đối diện với tử thần, những tử thần chỉ thấp thoáng đằng trước mặt như máy bay L.19, máy bay bị bắn nhưng chưa trúng đạn (nếu máy bay bị trúng đạn, giờ này chắc đã đầu thai kiếp khác?). 

Bây giờ già rồi, nghĩ lại thấy mình ngu ngu làm sao đó. Không thể tưởng tượng được, đời sống đang an vui, dạy học rất bình yên. Sống với học trò vui lắm. Thế mà xin nghỉ, xin ra chiến trường. Du học về nhiều việc, nếu muốn làm công chức không khó, vậy mà xin ra chiến trường, bay vào lửa đạn, để tìm cái gì? Để tìm sự hào hùng của các chiến sĩ QLVNCH?

Học trò của tôi dễ thương lắm. Thầy trò gặp lại ở xứ người, vui ơi là vui. Học trò ẵm cháu nội, cháu ngoại đến thăm cô giáo. Học trò mời cô giáo về nhà ăn, đánh ping-pong và kể chuyện ngày xưa, người còn người mất, kể lại các thầy cô giáo trường cũ, kể lại chuyện học trò, v.v... Những kỷ niệm đẹp làm ấm lòng thầy trò. Học trò ngày xưa rất có tình nghĩa. Lưu vong xứ người, học trò vẫn gửi quà về giúp cho cô giáo, thầy giáo còn ở lại VN. Tình nghĩa tuyệt vời này làm ấm lòng người không được may mắn, còn sống dưới chế độ Cộng Sản.

Sang Mỹ, tôi tiếp tục làm cô giáo, làm Staff Write của báo Hornet. Mùa hè, trường giới thiệu đi dạy học. Học trò cũng nghịch ghê lắm. Buổi trưa, nhà trường phát cho mỗi em một hộp cơm, gồm có sữa, sandwish và trái cây. Giờ trưa, các cô giáo đứng quây quần dưới bóng mát của sân trường để bàn chuyện học trò. Tôi nhìn thấy một em gái đứng gần tôi, ốm nhom. Nhìn môi em, tôi không thấy dấu hiệu gì em vừa ăn xong, vì môi của em không bóng như những em vừa ăn xong. Tôi hỏi em:

- Em ăn chưa?

Nhìn mắt của em, em có vẻ bối rối. Một em khác cũng đang đứng gần tôi, mắt nhìn vào thùng rác, mắt chớp chớp, tôi biết em này muốn thông báo với tôi việc gì đó. Tôi đến thùng rác, thì ra nhiều hộp cơm chưa mở nắp đã bị bỏ trong thùng rác.

Tôi hỏi các em:

- Ai? Ai đã quăng thức ăn vào thùng rác? Các em có biết giờ này hàng tỷ người trên thế giới đi ngủ với cái bụng đói không?

Tôi uất ức nên tiếng nói to hơn bình thường, vì các em quá nghịch. Khi tiếng nói của tôi phát ra rất to, các em chạy mất tiêu, không đứng gần các cô giáo nữa. 38 năm về trước, trường không có camera giăng khắp nơi như bây giờ, nếu có thì tức khắc nhìn vào màn ảnh computer, tôi nhận ra em nào nghịch ngay tức khắc.

Ông bà mình thường nói: "Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò". Học trò nghịch là lẽ đương nhiên. Ngày xưa, tôi là học trò, tôi cũng nghịch như thế. Kể về chuyện học trò hay kể về chuyện lính, và những tình thơ mộng của lính, không bao giờ kể hết. Người thật, việc thật, vừa cảm động, vừa bi thương. Trái tim có lý lẽ của nó, không ai phán đoán được tại sao mình thương người này và có thể chết vì người đó?

Ngày xưa, tôi được may mắn làm việc với những tờ báo lớn. Trước năm 1975 với Báo Công Luận, do 2 Thượng Nghị sĩ Trần Văn Đôn và nghị sĩ Trung tướng Tôn Thất Đính làm chủ báo. Sau này, tôi cộng tác với báo Hòa Bình do linh mục Trần Du, lam chủ nhiệm, ngài cũng là giáo sư đại chủng viện ở Sài Gòn. Do đó, tôi được quen với các Đức giám mục, linh mục, dì phước, thầy sáu v.v. Và từ đó, tôi được quen các lãnh đạo các tôn giáo, cho nên tôi có niềm tin mãnh liệt vào tôn giáo. Máy bay nghiêng nghiêng, lượn qua lượn lại theo làn đạn, tôi cầu nguyện, thuyền sắp chìm trên đường vượt biên, tôi cầu nguyện.Và tôi cầu nguyện hàng ngày, tôi tin sự mầu nhiệm của sự cầu nguyện. Cầu nguyện cho lòng mình bình yên, cầu nguyện để được Thượng Đế ban phúc lành, và cứu giúp.

Không phải tôi chỉ cầu nguyện cho chính mình, cho gia đình mình, mà còn cho người thân của mình, cho những người vừa mất, cho những người nằm trong bệnh viện. Tôi cũng cầu nguyện, nếu mình hết số thì Thượng Đế cho mình ra đi một cách bình yên, thanh thản, không đau đớn, không nuối tiếc. Tôi thăm viện dưỡng lão và nhà thương rất nhiều trong mấy chục năm nay. Đa số bệnh nhân nằm ở viện dưỡng lão, đau đớn từng ngày, từng giờ, chết không được, mà sống cũng không xong, cứ nằm trên giường từ ngày này đến ngày khác, tội lắm. Có người được phước ngủ rồi đi luôn, không lăn lộn, không đau đớn lúc sắp lìa đời.

Đời đẹp lắm nếu mình yêu đời, yêu người, sống vui vẻ, khỏe. mạnh, sống yêu người, yêu đời mà sống, có niềm tin tôn giáo mà sống, thì đời đẹp lắm.

Mong mọi người sống vui, sống hạnh phúc, sống được yêu và yêu thương mọi người.

 

Orange County, 09/10/2020

KIỀU MỸ DUYÊN

 

([email protected])

 

 

Những trẻ em ở viện mồ côi Mehico 01/2020 Những trẻ em ở viện mồ côi Mehico 01/2020

 

20200910_131005.jpg

Lớp học ngoài trời cho những trẻ mồ côi ở Thủ Đức,Việt Nam

 

 

20200910_130938.jpg

Lớp học ngoài trời cho những trẻ mồ côi ở Thủ Đức,Việt Nam

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.