Hôm nay,  

Màu Vu Lan Giữa Mùa Đại Dịch

17/08/202118:08:00(Xem: 4365)

 

Tran Kiem Doan
Nhớ Mẹ Mùa Vu Lan.  (Tranh ghép hình minh họa của Hoàng Mai - VOL)

 

Phật Đản và Vu Lan là hai ngày lễ lớn nhất của Phật giáo trong năm.

Riêng đối với tuổi trẻ thì Phật Đản là gốc rễ mà Vu Lan là hoa lá cành. Gốc rễ giữ cội nguồn và hoa lá cành làm giàu thêm vẻ đẹp.

Phật Đản là ngày lễ trọng đại mừng Đức Phật Thích Ca ra đời. Vu Lan là ngày kỷ niệm Mục Kiền Liên tâm thành hiếu hạnh.

 

Tích Mục Kiền Liên cứu mẹ đã trở thành biểu tưởng bái vọng của tinh thần báo hiếu tâm linh và cảm hứng sáng tạo nghệ thuật trong đạo Phật. 

 

Thuở hoa niên trên quê hương chiến tranh, bài thơ Rằm Tháng Bảy của Lê Mộng Nguyên đã làm rung động tâm hồn non trẻ chúng tôi; thế nhưng bây giờ nhớ lại những câu thuộc lòng tuy không trọn vẹn nhưng nỗi xúc động ngày xưa vẫn còn nguyên vẹn :

Mỗi độ thu sang Rằm tháng bảy,
Chiều xa vang dội tiếng chuông chùa,
Nhắc Mục Kiền Liên con nhớ Mẹ    ,
Mỗi một tâm hồn máu trẻ thơ…

Ngày xưa sống lại trong tâm trí,
Mường tượng hình ai lạnh võ vàng,
Khắc khoải chiều nay cơn gió tạt,
Lạnh mình em bé nhớ Vu Lan…

Đây bát cơm đầy nặng ước mong.
Mẹ ơi! Đây ngọc với đây lòng.
Đây tình còn đọng trong tha thiết,
Ân nghĩa sanh thành chưa trả xong…


Cũng như hầu hết tuổi trẻ Phật tử thế hệ Chiến tranh Việt Nam chúng tôi vẫn giữ mãi trong tâm tưởng rằng Vu Lan là mùa Nhớ Mẹ, mùa Báo Hiếu đầy hương hoa. Thuở ấy Vu Lan ở Huế có nắng mùa thu phai dìu dịu, có tiếng chuông chùa trầm lắng vọng âm, có lời kinh báo ân thao thiết nao lòng… Nhưng mãi đến những năm sau 1963, mới có lệ bông hồng cài áo hân hoan và thổn thức trong mùa Vu Lan sau tập bút ký ngắn đầy xúc động “ngọt ngào nước mắt” nhan đề Bông Hồng Cào Áo của Thầy Nhất Hạnh ra đời vào năm 1962. Mùa hiếu đạo ấy tưởng như muôn đời không bao giờ phai cũ bên hơi ấm mẹ hiền. Rồi lịch sử sang trang cùng với chiến tranh, hòa bình, đổi đời, hội ngộ và chia ly đã không ngừng thách đố ấn tượng êm đềm và thánh thiện của Vu Lan. Thách đố chiến tranh, tai trời ách nước có chăng cũng chỉ làm cho “gió có to đèn đường vẫn sáng!”

 

Nhưng thách thức chưa từng có đã xảy ra năm ngoái (2020) và năm nay. Thế giới con người và khoa học kỹ thuật thế kỷ 21 còn nghiêng đổ thì biết về đâu một lễ hội tâm linh như Vu Lan?! Câu hỏi bình thường thành vấn nạn thời thế là liệu Vu Lan có về được không giữa mùa đại địch Covid-19. Về! Chẳng phải là tổ chức được hay không lễ hội ngày rằm tháng bảy. Về ở đây là liệu lòng người còn yên ắng hay không để nhớ về hiếu hạnh khi cái chết vô hình đang vây bủa lấy thân phận con người. Mỹ, Việt Nam và khắp nơi trên thế giới đang có đầy rẫy những bà mẹ bị đày đọa như Mục Liên Thanh Đề đang là “F0” (người thọ bệnh Covid) trong địa ngục A Tỳ của dịch Covid. Biết bao đứa con hiếu thảo cũng đành thúc thủ buông xuôi tay chờ chết! Tìm đâu ra phương tiện cứu mẹ như ngày xưa được nương nhờ hồng ân hiệp lực mười phương của chư tăng?! Tính từ hôm nay thì còn đúng một tuần lễ nữa là đến ngày Lễ Vu Lan. Các chùa Việt Nam ở Mỹ đều có chương trình cử hành Lễ Vu Lan theo nghi thức truyền thống. Nhưng lương tri tự hỏi: “Trong cảnh dầu sôi lửa bỏng giữa mùa đại dịch đang tàn phá tận gốc rễ của con người, Vu Lan năm nay sẽ có gì khác hơn thời trước đại dịch?” Câu trả lời và thực tế diễn ra sẽ góp phần định nghĩa cho Văn Hóa Phật Giáo trong tinh thần “Đạo Phật ra đời để cứu khổ chúng sinh”.

Đại dịch Covid kéo dài hơn cả năm nay. Không đất nước nào thoát khỏi tình trạng cù cưa thọ dịch và dập dịch tái đi tái lại như tội nghiệt và trò chơi sinh tử. Các tôn giáo khác thường cung tay cầu nguyện và khi có ai chết vì dịch thì cứ đơn giản gán cho cái “trách nhiệm vô trách nhiệm” là do đấng tối linh thần nào đó… gọi về. Duy chỉ có đạo Phật là lý giải rạch ròi và khách quan hơn cả khi vận dụng thuyết Nhân - Quả và lý Duyên - Nghiệp vào cái biển đời phức tạp có khi đến độ nghịch lý nầy. Người ác bị nghiệp chướng dịch bệnh đánh ngã đã đành; nhưng vẫn có bao nhiêu người tốt, người hay vẫn bị chết vì dịch; trong khi kẻ ác, kẻ gian vẫn sống nhởn nhơ… là vì sao? Vào dịp Vu Lan, sau những màu hoa, màu áo, lời hay, ý đẹp và lễ nghi… nhiều màu sắc, người học Phật thử lắng lòng nhìn thấu lẽ thật của ngày lễ mang tính chất vừa thực tế vừa huyền thoại trọng đại thứ hai trong năm của con nhà Phật theo tín lý Đại Thừa.

Tôn giả Mục Kiền Liên (568-484 Trước Công Nguyên) là biểu tượng của con người hiện thực: Thiện duyên và ác nghiệp thường hằng nối gót bên mhau. Thánh giả Mục Kiền Liên hưởng phước theo lòng hiếu thảo cùng lúc của người con đại hiếu hạnh kiếp nầy hưởng phước; nhưng đồng thời cũng là đứa con đại bất hiếu kiếp trước phải trả nghiệp trong kiếp nầy. Là một trong mười đại đệ tử của Phật với hiếu hạnh tròn đầy: cứu Mẹ ra khỏi hỏa ngục, đắc quả A La Hán, có đệ nhất thần thông ở kiếp nầy nhưng ngài Mục Kiền Liên vẫn chịu án quả báo của nhiều kiếp trước trong tội cảnh là một đứa con bất hiếu! Mục Kiền Liên trước giờ nhập diệt chứng quả A La Hán phải chịu cảnh bị bọn cướp phanh thây để trả nợ cho ác nghiệp đại bất hiếu của mình trong một kiếp xa xưa đã nghe lời vợ ác xúi dục đem bỏ đói cha mẹ của mình trong rừng sâu cho đến chết! Nghiệp có thể giải cho nhẹ bớt nhưng trốn nghiệp hay xóa nghiệp thì… vô kế khả thi!

 

Bởi vậy, ý nghĩa hiện thực và thâm trầm nhất của ngày lễ Vu Lan là cưu mang và hóa giải. Tuyệt đối không có luật miễn trừ khi con người đương nhiên phải đối mặt với nghiệp quả thiện hay ác do chính mình tác tạo. Con người thường nhật và bậc thánh tăng như Tôn giả Mục Kiền Liên – trước dòng đời xoay chuyển từ vô thủy đến vô chung trùng trùng duyên nghiệp – đều đang chờ thọ nghiệp mà mình đã gieo duyên; hái trái mà mình đã gieo trồng… Gieo gì gặt nấy, chẳng lầm mấy may:

Lưới trời lồng lộng thưa không lọt,
Nhân quả gieo trồng chẳng rủi may!

Gieo ân báo ân, gieo oán báo oán không phải là chuyện xa vời huyền thoại. Con số hơn 200 triệu người bị lây nhiễm và hơn 4 triệu người đã chết và con số mỗi ngày một tăng vì dịch Covid trên toàn thế giới tính đến ngày hôm nay chưa có đường dừng lại. Không dựa trên nguyên lý Duyên Nghiệp để minh giải, con người sẽ hoang mang và tuyệt vọng trước những cái chết của người thân vì dịch Covid nguyên chủng hay biến thể.

 

Mùa Vu Lan hiếu hạnh – báo ân cha mẹ –  là truyền thống lâu đời của người con hiếu thảo nhưng làm sao tạo được một cơ hội chia sẻ, an ủi và liên tưởng đến mặt phản diện của những đứa con bất hiếu chưa gặp duyên lành để biết ăn năn sám hối trở về với cha mẹ. Dưới mái chùa, những người hưởng thiện nghiệp được đọc kinh, nghe pháp, cài hoa và chia sẻ cảm xúc; trong lúc đó, ngoài cổng chùa bao kẻ điêu linh không nơi nương tựa đang chịu nghiệp chướng nên bản thân mình còn bị quên lãng; nói gì đến cha mẹ, tứ thân! Nhưng tự bản chất, đạo Phật là đạo cứu khổ. Trong ngày đại lễ Vu Lan báo ân Cha Mẹ và báo cả Bốn Ân Lớn (tứ trọng ân) lẽ nào quên đi những mảnh đời bất hạnh quanh ta. Ước mong trong một tương lai rất gần, ngày Vu Lan không chỉ là dịp thường cúng cô hồn đã khuất vào buổi chiều mà cũng là dịp tiếp trợ tinh thần và tâm linh cho những người cô độc đang sống.

Rồi sẽ đến thế hệ “hậu Covid”. Thuyền trưởng, thủy thủ, mái chèo và hành khách thời trước và trong cơn bão sẽ đổi khác nhiều sau cơn đại cuồng phong về nếp nghĩ cũng như về cách nhìn và điệu sống. Hiển nhiên, ngọn nguồn và sự lý giải về Duyên Nghiệp của Phật lý và pháp sự vẫn không phai cũ với thời gian bởi tính khách quan, công bằng và khoa học về cả Lý và Sự.


Mùa Vu Lan năm nay  bên cạnh bông hồng đỏ, trắng của những đứa con ngoan còn mẹ hay mất mẹ cài lên áo; ước mong rồi đến một năm nào đó rất gần như sang năm, sẽ có đóa hoa xanh, hoa tím… thêm màu nở từ những cõi lòng thấm nước mắt của những đứa con chưa ngoan biết hối cải, ăn năn trở về với Mẹ.

                                                                          Sacramento, Cali –  Mùa Vu Lan 2021

                                                                                                                 Trần Kiêm Đoàn

 

____________

 

MỤC KIỀN LIÊN – Hà Thanh hát

https://www.youtube.com/watch?v=IyDZ9yw2M00

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.