Hôm nay,  

Hội Chứng Mộng Du Trung Quốc

06/10/202110:29:00(Xem: 3586)
Joseph S
Tác giả: Joseph S. Nye, Jr.



Project-Syndicate

Tác giả: Joseph S. Nye, Jr.
Dịch giả: Đỗ Kim Thêm

Nếu mối quan hệ Trung Quốc-Hoa Kỳ là một ván bài, thì người Mỹ sẽ nhận ra rằng họ đã được một lá bài tốt và tránh khuất phục trước nỗi sợ hãi hay niềm tin vào sự suy tàn của Hoa Kỳ. Nhưng ngay cả một lá bài tốt cũng có thể thua, nếu chơi tệ.

Khi chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden thực hiện chiến lược cạnh tranh đại cường với Trung Quốc, các nhà phân tích tìm các phép ẩn dụ trong lịch sử để giải thích tình trạng cạnh tranh ngày càng sâu sắc. Nhưng trong khi nhiều người  dựa vào sự khởi đầu của Chiến tranh Lạnh, thì một ẩn dụ lịch sử đáng lo ngại hơn là sự bắt đầu của Thế chiến thứ nhất. Năm 1914, tất cả các cường quốc đều mong rằng cuộc chiến Balkan lần thứ ba là ngắn ngủi. Thay vào đó, như nhà sử học người Anh Christopher Clark đã chỉ ra rằng, các cường quốc bị mộng du bước vào một trận đại chiến kéo dài bốn năm, phá hủy bốn đế chế và giết chết hàng triệu người.

Hồi đó, các nhà lãnh đạo không quan tâm đúng mức đến những thay đổi trong trật tự quốc tế từng được gọi là “buổi hòa nhạc của châu Âu”. Một thay đổi quan trọng là sức mạnh ngày càng tăng của chủ nghĩa dân tộc. Ở Đông Âu, chủ nghĩa Pan-Slav đã đe dọa cả đế chế Ottoman và Áo-Hung, những đế chế có nhiều dân số thuộc Nam Tư. Các tác giả người Đức đã viết về các trận chiến không thể tránh khỏi giữa người Teutonic-Slav, và sách giáo khoa đã làm bùng lên ngọn lửa dân tộc chủ nghĩa. Tinh thần dân tộc được chứng minh là mối ràng buộc bền chặt hơn chủ nghĩa xã hội đối với các tầng lớp lao động ở châu Âu và là mối ràng buộc bền chặt hơn chủ nghĩa tư bản đối với các chủ ngân hàng của châu Âu.

Hơn nữa, có một sự tự mãn ngày càng tăng về hòa bình. Các cường quốc đã không tham gia vào một cuộc chiến tranh ở châu Âu trong 40 năm. Tất nhiên, đã có những cuộc khủng hoảng – ở Maroc năm 1905-06, ở Bosnia năm 1908, ở Maroc một lần nữa vào năm 1911, và các cuộc chiến tranh Balkan năm 1912-13 – nhưng tất cả đều có thể kiểm soát được. Tuy nhiên, các thỏa hiệp ngoại giao giải quyết những xung đột này đã gây ra sự thất vọng và sự ủng hộ ngày càng tăng đối với chủ nghĩa xét lại. Nhiều nhà lãnh đạo tin rằng kẻ mạnh giành được thắng lợi trong một cuộc chiến ngắn mang tính quyết định, sẽ là một sự thay đổi đáng hoan nghênh.

Nguyên nhân thứ ba dẫn đến sự mất linh hoạt trong trật tự quốc tế đầu thế kỷ XX là chính sách của Đức, vốn đầy tham vọng nhưng mơ hồ và khó hiểu. Có một sự vụng về khủng khiếp về việc theo đuổi quyền lực của Wilhelm II, Hoàng đế Đức. Có thể thấy điều gì đó tương tự với “Giấc mơ Trung Hoa” của Chủ tịch Tập Cận Bình, việc ông từ bỏ phương cách kiên nhẫn của Đặng Tiểu Bình và chính sách ngoại giao “chiến binh sói” thái quá mang tính dân tộc của Trung Quốc.

Ngày nay, giới hoạch định chính sách phải cảnh giác trước sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc, cũng như chủ nghĩa sô vanh dân túy ở Hoa Kỳ. Kết hợp với chính sách đối ngoại hiếu chiến của Trung Quốc, lịch sử của các bế tắc và những thỏa hiệp không thỏa đáng đối với Đài Loan, triển vọng của tình trạng leo thang khinh suất giữa hai cường quốc vẫn tồn tại. Như Clark đã đề cập, một khi những thảm họa như Thế chiến thứ nhất xảy ra, “chúng áp đặt cho chúng ta (hoặc dường như làm như vậy) một cảm giác về sự cần thiết chúng”. Nhưng năm 1914, Clark kết luận, “tương lai vẫn còn rộng mở – chỉ đúng như vậy. Đối với tất cả những khó khăn của các mặt trận ở cả hai phe có vũ trang của châu Âu, đã có những dấu hiệu cho thấy thời điểm cho một cuộc đối đầu trọng đại có thể sắp qua“.

Một chiến lược thành công phải ngăn ngừa hội chứng mộng du. Năm 1914, Áo chán ngấy chủ nghĩa dân tộc mới nổi của Serbia. Việc một tên khủng bố người Serbia ám sát một hoàng tử người Áo là một cái cớ hoàn hảo cho một tối hậu thư. Trước khi đi nghỉ hè, hoàng đế Đức đã quyết định ngăn chặn một nước Nga đang trỗi dậy và ủng hộ đồng minh Áo của mình bằng cách cấp cho Áo một công hàm ngoại giao ủng hộ vô điều kiện. Khi ngài trở về và biết được Áo đã thực hiện như thế nào, ngài đã cố gắng thu hồi bản văn, nhưng đã quá muộn.

Mỹ hy vọng sẽ ngăn chặn việc sử dụng vũ lực của Trung Quốc và duy trì sự lấp lửng về mặt pháp lý đối với Đài Loan, nơi mà Trung Quốc coi là một tỉnh nổi loạn. Trong nhiều năm, chính sách của Hoa Kỳ đã được soạn thảo để ngăn chặn việc Đài Loan tuyên bố độc lập về mặt pháp lý cũng như việc Trung Quốc sử dụng vũ lực đối với hòn đảo này. Ngày nay, một số nhà phân tích cảnh báo rằng, hai chính sách răn đe song hành này đã lỗi thời, vì sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc có thể cám dỗ các nhà lãnh đạo của họ hành động.

Những người khác tin rằng, một sự bảo đảm hoàn toàn với Đài Loan hoặc ám chỉ rằng, Mỹ đang đi theo hướng đó sẽ kích động cho Trung Quốc hành động. Nhưng ngay cả khi Trung Quốc né tránh một cuộc xâm lược quy mô toàn diện và chỉ cố gắng ép buộc Đài Loan bằng cách phong tỏa hoặc bằng cách chiếm một trong những hòn đảo ngoài khơi của họ, nguy cơ chiến tranh vẫn sẽ bùng nổ nếu có một sự cố liên quan đến các tàu hoặc máy bay dẫn đến thiệt hại về nhân mạng. Nếu Mỹ phản ứng bằng cách đóng băng tài sản hoặc viện dẫn Đạo luật giao dịch với kẻ thù, cuộc chiến ẩn dụ của hai nước có thể nhanh chóng trở thành hiện thực. Bài học của năm 1914 là cảnh giác với chứng mộng du, nhưng chúng không đưa ra giải pháp để giải quyết vấn đề Đài Loan.

Một chiến lược thành công của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc bắt đầu từ trong nước. Nó đòi hỏi phải duy trì các thể chế dân chủ thu hút thay vì ép buộc các đồng minh, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển để duy trì lợi thế công nghệ của Mỹ và duy trì sự cởi mở của Mỹ với thế giới. Đối với bên ngoài, Mỹ nên tái cấu trúc các lực lượng quân sự kế thừa của mình để thích ứng với sự thay đổi công nghệ; củng cố các cấu trúc liên minh, bao gồm NATO và các thỏa thuận với Nhật Bản, Australia và Hàn Quốc; tăng cường mối quan hệ với Ấn Độ; củng cố và bổ sung các thể chế quốc tế mà Mỹ đã giúp tạo ra sau Thế chiến thứ hai để thiết lập các tiêu chuẩn và quản lý sự phụ thuộc lẫn nhau; và hợp tác với Trung Quốc, nếu có thể được, về các vấn đề xuyên quốc gia. Cho đến nay, chính quyền Biden đang theo một chiến lược như vậy, nhưng năm 1914 là một lời nhắc nhở thường xuyên về sự thận trọng.

Trong tương lai gần, với các chính sách quyết đoán của Tập, Hoa Kỳ có thể sẽ phải dành nhiều thời gian hơn cho sự quân bình trong cạnh tranh. Tuy nhiên, một chiến lược như vậy có thể thành công, nếu Mỹ tránh được tư tưởng ma quỷ hóa và những suy diễn tương tự sai lầm như trong  thời Chiến tranh Lạnh, đồng thời duy trì các liên minh của mình. Năm 1946, George Kennan đã tiên đoán chính xác về một cuộc đối đầu kéo dài hàng thập niên với Liên Xô. Mỹ không thể kiềm chế Trung Quốc, nhưng có thể hạn chế lựa chọn của Trung Quốc bằng cách định hình môi trường mà nước này trỗi dậy.

Nếu mối quan hệ Trung Quốc-Hoa Kỳ là một ván bài, thì người Mỹ sẽ nhận ra rằng  họ đã nhận được một lá bài tốt và tránh khuất phục trước nỗi sợ hãi hay niềm tin vào sự suy tàn của Hoa Kỳ. Nhưng ngay cả một lá bài tốt cũng có thể thua nếu chơi tệ.

***


Joseph S. Nye, Jr. là Giáo sư Đại học Harvard và tác giả sách: 
Do Morals Matter? Presidents and Foreign Policy from FDR to Trump.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.