Hôm nay,  

Hội Chứng Mộng Du Trung Quốc

06/10/202110:29:00(Xem: 3591)
Joseph S
Tác giả: Joseph S. Nye, Jr.



Project-Syndicate

Tác giả: Joseph S. Nye, Jr.
Dịch giả: Đỗ Kim Thêm

Nếu mối quan hệ Trung Quốc-Hoa Kỳ là một ván bài, thì người Mỹ sẽ nhận ra rằng họ đã được một lá bài tốt và tránh khuất phục trước nỗi sợ hãi hay niềm tin vào sự suy tàn của Hoa Kỳ. Nhưng ngay cả một lá bài tốt cũng có thể thua, nếu chơi tệ.

Khi chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden thực hiện chiến lược cạnh tranh đại cường với Trung Quốc, các nhà phân tích tìm các phép ẩn dụ trong lịch sử để giải thích tình trạng cạnh tranh ngày càng sâu sắc. Nhưng trong khi nhiều người  dựa vào sự khởi đầu của Chiến tranh Lạnh, thì một ẩn dụ lịch sử đáng lo ngại hơn là sự bắt đầu của Thế chiến thứ nhất. Năm 1914, tất cả các cường quốc đều mong rằng cuộc chiến Balkan lần thứ ba là ngắn ngủi. Thay vào đó, như nhà sử học người Anh Christopher Clark đã chỉ ra rằng, các cường quốc bị mộng du bước vào một trận đại chiến kéo dài bốn năm, phá hủy bốn đế chế và giết chết hàng triệu người.

Hồi đó, các nhà lãnh đạo không quan tâm đúng mức đến những thay đổi trong trật tự quốc tế từng được gọi là “buổi hòa nhạc của châu Âu”. Một thay đổi quan trọng là sức mạnh ngày càng tăng của chủ nghĩa dân tộc. Ở Đông Âu, chủ nghĩa Pan-Slav đã đe dọa cả đế chế Ottoman và Áo-Hung, những đế chế có nhiều dân số thuộc Nam Tư. Các tác giả người Đức đã viết về các trận chiến không thể tránh khỏi giữa người Teutonic-Slav, và sách giáo khoa đã làm bùng lên ngọn lửa dân tộc chủ nghĩa. Tinh thần dân tộc được chứng minh là mối ràng buộc bền chặt hơn chủ nghĩa xã hội đối với các tầng lớp lao động ở châu Âu và là mối ràng buộc bền chặt hơn chủ nghĩa tư bản đối với các chủ ngân hàng của châu Âu.

Hơn nữa, có một sự tự mãn ngày càng tăng về hòa bình. Các cường quốc đã không tham gia vào một cuộc chiến tranh ở châu Âu trong 40 năm. Tất nhiên, đã có những cuộc khủng hoảng – ở Maroc năm 1905-06, ở Bosnia năm 1908, ở Maroc một lần nữa vào năm 1911, và các cuộc chiến tranh Balkan năm 1912-13 – nhưng tất cả đều có thể kiểm soát được. Tuy nhiên, các thỏa hiệp ngoại giao giải quyết những xung đột này đã gây ra sự thất vọng và sự ủng hộ ngày càng tăng đối với chủ nghĩa xét lại. Nhiều nhà lãnh đạo tin rằng kẻ mạnh giành được thắng lợi trong một cuộc chiến ngắn mang tính quyết định, sẽ là một sự thay đổi đáng hoan nghênh.

Nguyên nhân thứ ba dẫn đến sự mất linh hoạt trong trật tự quốc tế đầu thế kỷ XX là chính sách của Đức, vốn đầy tham vọng nhưng mơ hồ và khó hiểu. Có một sự vụng về khủng khiếp về việc theo đuổi quyền lực của Wilhelm II, Hoàng đế Đức. Có thể thấy điều gì đó tương tự với “Giấc mơ Trung Hoa” của Chủ tịch Tập Cận Bình, việc ông từ bỏ phương cách kiên nhẫn của Đặng Tiểu Bình và chính sách ngoại giao “chiến binh sói” thái quá mang tính dân tộc của Trung Quốc.

Ngày nay, giới hoạch định chính sách phải cảnh giác trước sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc, cũng như chủ nghĩa sô vanh dân túy ở Hoa Kỳ. Kết hợp với chính sách đối ngoại hiếu chiến của Trung Quốc, lịch sử của các bế tắc và những thỏa hiệp không thỏa đáng đối với Đài Loan, triển vọng của tình trạng leo thang khinh suất giữa hai cường quốc vẫn tồn tại. Như Clark đã đề cập, một khi những thảm họa như Thế chiến thứ nhất xảy ra, “chúng áp đặt cho chúng ta (hoặc dường như làm như vậy) một cảm giác về sự cần thiết chúng”. Nhưng năm 1914, Clark kết luận, “tương lai vẫn còn rộng mở – chỉ đúng như vậy. Đối với tất cả những khó khăn của các mặt trận ở cả hai phe có vũ trang của châu Âu, đã có những dấu hiệu cho thấy thời điểm cho một cuộc đối đầu trọng đại có thể sắp qua“.

Một chiến lược thành công phải ngăn ngừa hội chứng mộng du. Năm 1914, Áo chán ngấy chủ nghĩa dân tộc mới nổi của Serbia. Việc một tên khủng bố người Serbia ám sát một hoàng tử người Áo là một cái cớ hoàn hảo cho một tối hậu thư. Trước khi đi nghỉ hè, hoàng đế Đức đã quyết định ngăn chặn một nước Nga đang trỗi dậy và ủng hộ đồng minh Áo của mình bằng cách cấp cho Áo một công hàm ngoại giao ủng hộ vô điều kiện. Khi ngài trở về và biết được Áo đã thực hiện như thế nào, ngài đã cố gắng thu hồi bản văn, nhưng đã quá muộn.

Mỹ hy vọng sẽ ngăn chặn việc sử dụng vũ lực của Trung Quốc và duy trì sự lấp lửng về mặt pháp lý đối với Đài Loan, nơi mà Trung Quốc coi là một tỉnh nổi loạn. Trong nhiều năm, chính sách của Hoa Kỳ đã được soạn thảo để ngăn chặn việc Đài Loan tuyên bố độc lập về mặt pháp lý cũng như việc Trung Quốc sử dụng vũ lực đối với hòn đảo này. Ngày nay, một số nhà phân tích cảnh báo rằng, hai chính sách răn đe song hành này đã lỗi thời, vì sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc có thể cám dỗ các nhà lãnh đạo của họ hành động.

Những người khác tin rằng, một sự bảo đảm hoàn toàn với Đài Loan hoặc ám chỉ rằng, Mỹ đang đi theo hướng đó sẽ kích động cho Trung Quốc hành động. Nhưng ngay cả khi Trung Quốc né tránh một cuộc xâm lược quy mô toàn diện và chỉ cố gắng ép buộc Đài Loan bằng cách phong tỏa hoặc bằng cách chiếm một trong những hòn đảo ngoài khơi của họ, nguy cơ chiến tranh vẫn sẽ bùng nổ nếu có một sự cố liên quan đến các tàu hoặc máy bay dẫn đến thiệt hại về nhân mạng. Nếu Mỹ phản ứng bằng cách đóng băng tài sản hoặc viện dẫn Đạo luật giao dịch với kẻ thù, cuộc chiến ẩn dụ của hai nước có thể nhanh chóng trở thành hiện thực. Bài học của năm 1914 là cảnh giác với chứng mộng du, nhưng chúng không đưa ra giải pháp để giải quyết vấn đề Đài Loan.

Một chiến lược thành công của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc bắt đầu từ trong nước. Nó đòi hỏi phải duy trì các thể chế dân chủ thu hút thay vì ép buộc các đồng minh, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển để duy trì lợi thế công nghệ của Mỹ và duy trì sự cởi mở của Mỹ với thế giới. Đối với bên ngoài, Mỹ nên tái cấu trúc các lực lượng quân sự kế thừa của mình để thích ứng với sự thay đổi công nghệ; củng cố các cấu trúc liên minh, bao gồm NATO và các thỏa thuận với Nhật Bản, Australia và Hàn Quốc; tăng cường mối quan hệ với Ấn Độ; củng cố và bổ sung các thể chế quốc tế mà Mỹ đã giúp tạo ra sau Thế chiến thứ hai để thiết lập các tiêu chuẩn và quản lý sự phụ thuộc lẫn nhau; và hợp tác với Trung Quốc, nếu có thể được, về các vấn đề xuyên quốc gia. Cho đến nay, chính quyền Biden đang theo một chiến lược như vậy, nhưng năm 1914 là một lời nhắc nhở thường xuyên về sự thận trọng.

Trong tương lai gần, với các chính sách quyết đoán của Tập, Hoa Kỳ có thể sẽ phải dành nhiều thời gian hơn cho sự quân bình trong cạnh tranh. Tuy nhiên, một chiến lược như vậy có thể thành công, nếu Mỹ tránh được tư tưởng ma quỷ hóa và những suy diễn tương tự sai lầm như trong  thời Chiến tranh Lạnh, đồng thời duy trì các liên minh của mình. Năm 1946, George Kennan đã tiên đoán chính xác về một cuộc đối đầu kéo dài hàng thập niên với Liên Xô. Mỹ không thể kiềm chế Trung Quốc, nhưng có thể hạn chế lựa chọn của Trung Quốc bằng cách định hình môi trường mà nước này trỗi dậy.

Nếu mối quan hệ Trung Quốc-Hoa Kỳ là một ván bài, thì người Mỹ sẽ nhận ra rằng  họ đã nhận được một lá bài tốt và tránh khuất phục trước nỗi sợ hãi hay niềm tin vào sự suy tàn của Hoa Kỳ. Nhưng ngay cả một lá bài tốt cũng có thể thua nếu chơi tệ.

***


Joseph S. Nye, Jr. là Giáo sư Đại học Harvard và tác giả sách: 
Do Morals Matter? Presidents and Foreign Policy from FDR to Trump.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.